Bản án số 31/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 31/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 31/2024/DS-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hàm Tân (TAND tỉnh Bình Thuận)
Số hiệu: 31/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà S khởi kiện ông H yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HÀM TÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 31/2024/DS-ST
Ngày: 28/8/2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất; Đòi lại tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang;
Các Hội thẩm nhân dân: Nguyễn Thị Lệ Thanh và ông Phan Quang
Sơn;
Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Phan Ngọc Trà My - Thư ký Tòa án;
Đại diện Viện kiểm sát nhân n huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa:
Bà Hoàng Thị Kim Trâm - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân huyện Hàm Tân,
tỉnh Bình Thuận xét xử thẩm công khai v án dân sự thụ số
216/2023/TLST-DS ngày 23 tháng 11 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và “Đòi lại tài sản”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử thẩm số 72/2024/QĐDS-ST ngày
15/7/2024 Quyết định hoãn phiên a số 88/2024/QĐST-DS ngày 15/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Ngô Thị S, sinh năm 1971 (Có mặt)
Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh B.
- Bị đơn: Ông Ngô Xuân H, sinh năm: 1970 (Có mặt)
Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh B.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Kim H1, sinh năm 1970 (Có mặt)
2. Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1974 (Có mặt)
3. Ông Ngô Xuân L, sinh năm 1996 (Vắng mặt)
4. Bà Ngô Thị Xuân H2, sinh năm 1995 (Vắng mặt)
Cùng địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh B.
- Người làm chứng: Ông Ngô Xuân B, sinh năm 1975 (Vắng mặt)
2
Địa chỉ: thôn ĐH, xã T, huyện H, tỉnh B.
(Ông L, bà H2, ông B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn Ngô Thị S trình bày: Năm 2006, vợ chồng nhận
chuyển nhượng quyền s dụng đất của vợ chồng ông Ngô Xuân H diện tích
230m
2
với giá 35.000.000đ. Các bên không lập hợp đồng chỉ giao dịch bằng
lời nói. Vợ chồng đã giao đủ tiền cho vợ chồng ông H nhận đất sử dụng
cho đến hiện nay. Diện tích đất chuyển nhượng thuộc một phần Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số L 980770 được Ủy ban nhân dân huyện H cho hộ
ông Ngô Xuân H ngày 14/9/1998 (Tđây viết tắt Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số L 980770). Năm 2013, sau khi ông H tiến hành tách thửa, diện tích
đất chuyển nhượng cho vợ chồng bà được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BO
550422 ngày 30/5/2013 cho hộ ông NXuân H (Từ đây được viết tắt Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422). Từ đó đến nay nhiều lần yêu
cầu ông H phải thực hiện thủ tục sang tên cho vợ chồng nhưng ông H không
thực hiện. Năm 2021, ông H đã lập văn bản thoả thuận thực hiện chuyển
nhượng, theo đó ông H trách nhiệm thực hiện thtục công chứng, sang tên
cho bà vào tháng 06/2021, nhưng đến hạn ông H vẫn không thực hiện. Tại đơn
khởi kiện bà đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa và ông Ngô Xuân H đối với diện tích đất 230m
2
thuộc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sBO 550422; Buộc ông Ngô Xuân H thực hiện việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà.
Tại phiên toà, yêu cầu Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa vợ chồng vợ chồng ông H đối với diện tích đất
theo kết quả đo đạc thực tế là 224,9m
2
thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BO 550422 do UBND huyện H ngày 30/5/2013 cho hộ ông Ngô Xuân H.
Đối với yêu cầu phản tố của ông H, ngày 15/7/2024 vợ chồng đã giao
cho vợ chồng ông H số tiền 24.000.000đ theo yêu cầu, biên bản giao nhận tiền
bản phô tô đã được nộp cho Toà án. Hiện nay không còn nợ nần gì đối với số
tiền thuế, phí chuyển mục đích nêu trên.
- Bị đơn ông Ngô Xuân H trình bày: Năm 2006, vợ chồng ông chuyển
nhượng cho vợ chồng bà S, ông H1 diện tích đất 230m
2
với giá khoảng
25.000.000đ - 35.000.000đ. Các bên không lập hợp đồng chỉ giao kết bằng
lời nói. Vợ chồng S đã giao đủ tiền, vợ chồng ông cũng đã giao đất cho vợ
chồng S sử dụng. Diện tích đất chuyển nhượng thuộc một phần Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số L 980770. Năm 2013, ông đã tiến hành tách thửa
diện tích đất trên để m thủ tục sang tên cho vợ chồng S. Sau khi tách thửa,
diện tích đất chuyển nhượng được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BO 550422. Ông yêu cầu vợ chồng S giao tiền để ông thanh
toán các khoản thuế, phí và nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vợ
3
chồng bà S không thực hiện. vậy, ông phải vay mượn tiền để thanh toán các
khoản thuế, phí nêu trên. Từ năm 2013 đến nay, vợ chồng S không đến
thương lượng cùng ông đthực hiện thủ tục công chứng, sang tên liên tục
gửi đơn đến UBND T cũng như đến Toà án nhân dân huyện Hàm Tân. Năm
2021, ông S đã lập văn bản thoả thuận việc chuyển nhượng, theo đó ông
trách nhiệm thực hiện thủ tục công chứng, sang tên cho S vào tháng
06/2021, S phải thanh toán các khoản thuế, phí chuyển mục đích, nhưng đến
hạn S vẫn không thực hiện. S không thiện chí nên ông không đồng ý
thực hiện việc công chứng sang tên cho vợ chồng bà S.
Ngày 09/7/2024, ông đơn yêu cầu phản tố đề nghị Toà án buộc S
phải trả số tiền thuế, phí chuyển mục đích, tách thửa 8.000.000đ tiền lãi
chậm trả từ tháng 06/2013 đến thời điểm hiện tại với mức lãi suất 20%/năm
16.000.000đ. Tổng số tiền S phải trả 24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu
đồng). Ngày 15/7/2024, vợ chồng S đã thanh toán cho vợ chồng ông số tiền
nói trên, nên ngày 05/8/2024 ông đã có đơn rút yêu cầu phản tố đối với bà S.
Tại phiên toà, ông xác định giá chuyển nhượng 35.000.000đ ý
kiến thống nhất với yêu cầu khởi kiện của S, đồng thời, đề nghị Toà án đình
chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của ông.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Kim H1 trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của S. Yêu cầu Toà án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vchồng ông và vợ chồng ông H đối
với diện tích đất theo kết quả đo đạc thực tế 224,9m
2
thuộc giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BO 550422.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thu T trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của ông H. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
do vợ chồng bà cùng tham gia, trong quá trình giải quyết vụ án bà không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của bà S vì bà S không thiện chí. Tại phiên tòa, bà đề nghị
Toà án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của S. xác nhận vợ chồng S đã
giao cho vợ chồng số tiền 24.000.000đ nên thống nhất với việc rút yêu cầu
phản tố của ông H.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Xuân H2 và ông Ngô
Xuân L vắng mặt tại phiên toà nhưng đã văn bản trình bày kiến ý kiến gửi
cho Toà án, cụ thể: Họ là con của ông H T. Diện tích đất theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số L 980770 có nguồn gốc do bà Hoàng Thị C tặng cho
cha mẹ họ. Họ xác định diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
L 980770 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422 cấp cho hgia
đình nhưng là tài sản của cha mẹ, họ không có công sức đóng góp trong việc tạo
lập và phát triển khối tài sản trên. Việc chuyển nhượng cho vợ chồng bà S, họ có
biết và không có ý kiến gì vì đất của ông H, bà T nên ông H và bà T được quyền
tự định đoạt. Hiện nay, ông L, H2 giao cho cha mẹ toàn quyền quyết định
mọi vấn đề liên quan đến diện tích đất nói trên. Ngoài ra ông L, H2 không
tranh chấp, không có yêu cầu gì khác và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
4
Người làm chứng ông Ngô Xuân B trình bày: Diện tích đất bà S xây dựng
nhà nằm ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422 trước đây của
cha mẹ ông, sau đó để thừa kế lại cho ông. Khi ông cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì ông đã chừa phần đất này lại cho bà S. Hiện nay diện tích
đất ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên mà bà S đã xây dựng nhà,
ông không tranh chấp gì đối với S.
Ngày 14/12/2023, Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân cùng đại diện Ủy ban
nhân dân xã T và đại diện Chi nhánh Văn phòng Đ tiến hành xem xét, thẩm định
tại chỗ và đo đạc diện tích đất mà các bên tranh chấp. Kết quả thể hiện diện tích
đất tranh chấp giữa các bên đương sự 264,7m
2
, được giới hạn bởi các điểm 1,
2, 3, 4, 1 trên mảnh trích đo hiện trạng khu đất. Cụ thể:
+ 224,9m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422.
+ 39,8m
2
nằm ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422.
Trên diện tích đất 224,9m
2
01 phần căn nhà cấp 04, một nhà tạm nền
gạch ceramic, 01 chái tạm không vách, tường rào xây gạch, cây trồng trên đất
gồm rau, đu đủ, chanh, mai, sả, nghệ, bông giấy, bông trang.
Ngày 02/7/2024, Hội đồng định giá đã tiến hành định giá tài sản tranh
chấp, cụ thể: Diện tích đất tranh chấp có giá nhà nước như sau: Đất nông nghiệp
nằm trong khu dân g145.180đ/m
2
; Đất giá 414.540/m
2
; Rau các
loại giá 32.000đ; 05 cây đu đủ loại A giá 300.000đ; 02 cây đu đnhỏ
giá 24.000đ; 01 cây chanh loại A giá 310.000đ; 02 cây mai giá 280.000đ;
01 bụi sả giá 4.500đ; 04 bụi nghệ giá 18.000đ; 01 cây bông giấy giá
48.000đ; 06 cây bông trang giá 288.000đ; Một phần nhà cấp 04 giá trị còn
lại 72.743.400đ; 01 chái tạm không ch giá trị còn lại 3.225.000đ; 01
nhà tạm nền gạch ceramic có giá trị còn lại là 8.276.400đ; Tường rào xây gạch có
trát trên lưới B40 cao dưới 1,5m a trị còn lại là 6.160.000đ; Tường rào
xây gạch cao dưới 1,5m không trát có giá trị còn lại là 5.825.000đ.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm n cho
rằng:
- Việc tuân theo pháp luật từ khi thụ vụ án đến khi xét xử thẩm:
Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự; Thẩm
quyền thụ vụ án, xác định quan hệ pháp luật, cách pháp lý mối quan hệ
giữa những người tham gia tố tụng, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên
cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng phù hợp quy
định pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng
phiên tòa sơ thẩm; Các đương sự đã thực hiện theo đúng quy định.
- Về nội dung: Đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa ông Trần Kim H1, Ngô Thị S ông Ngô Xuân H,
Nguyễn Thị Thu T. Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố “Đòi lại tài sản” của ông
Ngô Xuân H. Về án phí, đương sự phải chịu án phí theo quy định. Về chi phí
5
xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo đạc, nguyên đơn không yêu cầu
giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, đơn khởi kiện, thẩm
tra các chứng cứ quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử
thẩm nhận định:
[1] Ngô Thị S khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất năm 2006 giữa vợ chồng bà vợ chồng ông Ngô
Xuân H; Ông Ngô Xuân H yêu cầu phản tố buộc S phải hoàn trả lại tiền
thuế, phí chuyển mục đích, tách thửa và lãi suất theo quy định nên quan hệ tranh
chấp trong vụ án Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
“Đòi lại tài sản” theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 26 Bộ luật Ttụng n
sự.
[2] Đối tượng tranh chấp là bất động sản tại huyện H, nên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
[3] Yêu cầu hoàn trả tiền thuế, phí chuyển mục đích lãi chậm trả của
ông H được đưa ra trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời, yêu cầu nói trên có liên quan đến yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm
cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn, thuộc trường hợp quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự, nên Tòa án thụ lý yêu
cầu phản tố của ông H để xem xét trong cùng một vụ án là phù hợp.
[4] Người quyền lợi, nghĩa vliên quan Ngô Thị Xuân H2 ông
Ngô Xuân L, người làm chứng ông Ngô Xuân B vắng mặt tại phiên tòa và đã
đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227,
khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ
án.
[5] Theo đơn khởi kiện, bà S yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông H đối với diện tích đất 230m
2
buộc ông H
thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà. Tại phiên tòa, S
thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa v chồng vợ chồng ông H đối với diện tích
224.9m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422 được giới hạn
bởi các điểm 9, 16, 3, 4, 9 trên mảnh trích đo hiện trạng khu đất do Chi nhánh
Văn phòng Đ ký duyệt ngày 22/01/2024. Xét thấy, việc nguyên đơn thay đổi yêu
cầu khởi kiện tự nguyện phợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ
luật Tố tụng Dân sự nên chấp nhận.
[6] Các đương sthống nhất việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với diện tích 230m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 980770
bằng lời nói; Vợ chồng S đã nhận đất sử dụng từ năm 2006 cho đến nay;
6
Vợ chồng ông H đã nhận đủ tiền chuyển nhượng. Đây là các tình tiết, sự kiện
không phải chứng minh.
[7] Tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án thể hiện, năm 2013 ông H đã
tách thửa, chuyển mục đích phần diện tích đất tranh chấp thuộc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số L 980770, thửa đất mới hình thành sau khi tách thửa
được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422.
Quá trình giải quyết vụ án, quan chuyên môn đã tiến hành đo đạc chồng
ghép giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kết quả thể hiện diện tích đất tranh
chấp 224.9m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422
39.8m
2
không thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.
[8] Công văn số 2047/UBND TNMT ngày 11/6/2024 của Ủy ban nhân
dân huyện H xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 980770 và Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422 được cấp đúng đối tượng đúng
trình tự thtục, tuy nhiên, không căn cứ để xác định diện tích đất theo các
giấy chứng nhận nêu trên được cấp cho thành viên nào trong hộ của ông H.
HĐXX xét thấy, tài liệu chứng cứ do Toà án thu thập thể hiện vào thời điểm
đăng khai quyền sử dụng đất, hộ của ông H gồm ông H, T, H2, ông
L. Tất cả các thành viên đều thừa nhận nguồn gốc đất do C mẹ ông Hiệp tng
cho vợ chồng ông H. Ông L, bà H2 xác định quyền sử dụng đất đối với các thửa
đất nêu trên tài sản riêng của ông H, T, họ không công sức trong việc
đóng góp tạo lập tài sản. Như vậy, căn cứ để xác định quyền sdụng đối
với diện tích đất tranh chấp thuộc Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số BO
550422 là tài sản của ông H, bà T.
[9] Tại phiên tòa, T xác định mình tham gia việc thỏa thuận chuyển
nhượng cùng với ông H, bà cũng là người nhận tiền chuyển nhượng và cùng với
ông H tiến hành các thủ tục cần thiết để tách thửa, chuyển mục đích diện tích đất
đã chuyển nhượng để tiến hành công chứng, sang tên cho vợ chồng S. Như
vậy, có căn cứ để xác định bà T cùng tham gia việc chuyển nhượng với ông H.
[10] Về giá chuyển nhượng, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự tại
phiên tòa, HĐXX xác định giá chuyển nhượng quyền sdụng đất 35 triệu
đồng. Các bên xác định vợ chồng ông H đã nhận đủ tiền chuyển nhượng, hiện
nay không tranh chấp gì nên không xem xét.
[11] Các đương sự đều xác định loại đất chuyển nhượng đất nông
nghiệp. Tuy nhiên, để thực hiện việc chuyển nhượng, bị đơn đã chuyển mục
đích một phần diện tích đất chuyển nhượng thành đất ở. Nguyên đơn cũng thống
nhất việc chuyển mục đích đã thanh toán các khoản thuế, phí cho bị đơn. Do
đó, diện tích đất tranh chấp được xác định gồm 80m
2
đất và 144,9m
2
đất trồng
cây hàng năm khác thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 550422.
[12] Các bên thống nhất chuyển nhượng diện tích đất 230m
2
với giá 35
triệu đồng, nhưng qua đo đạc thực tế diện tích đất tranh chấp 224,9m
2
, thiếu
5,1m
2
. Nguyên đơn ông H1 xác định chỉ tranh chấp đối với diện tích đất
7
224,9m
2
. Đối với diện tích đất còn thiếu, vợ chồng nguyên đơn không yêu cầu bị
đơn phải giao đủ hoặc phải hoàn trả lại giá trị nên không xem xét.
[13] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên vào năm
2006 được giao kết bằng lời nói. Năm 2021 các bên tiếp tục lập văn bản thỏa
thuận nhằm tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng, đến nay vẫn chưa thực hiện
xong thủ tục cần thiết để đăng ký biến động đất đai. Đây là trường hợp hợp đồng
đang được thực hiện và có nội dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật
Dân sự 2015 nên áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự 2015 để giải quyết. Việc
chuyển nhượng không được lập thành văn bản, không được công chứng, chứng
thực theo quy định vi phạm vmặt hình thức theo quy định tại Điều 127 Luật
Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, nguyên đơn đã giao toàn bộ s tiền chuyển
nhượng; Bị đơn cũng đã bàn giao đất cho nguyên đơn sử dụng từ năm 2006 cho
đến nay. Tại phiên tòa, vợ chồng ông H cũng thống nhất đề nghị Tòa án tuyên
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất với vợ chồng bà S. Do
vậy, căn cứ Điều 129 Bộ luật n sự, Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H1, S ông H, T đối với
diện tích 224.9m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BO 550422 có hiệu
lực, mà không cần phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
[14] Ông H1 S trình bày số tiền nhận chuyển nhượng tài sản
chung vchồng, xác định quyền sử dụng đối với diện tích đất tranh chấp
tài sản chung do vợ chồng họ tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, HĐXX xác
định đây là tài sản chung của ông H1, S họ quyền sử dụng đối với diện
tích đất tranh chấp.
[15] Đối với tài sản trên đất: Các bên đều xác định rằng thời điểm chuyển
nhượng, trên đất không có tài sản gì. Tài sản trên đất hiện nay do vợ chồng bà S
xây dựng. Các đương sự không tranh chấp gì, nên HĐXX không xem xét.
[16] Đối với diện tích đất 39.8m
2
được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 8, 16,
9, 5, 1 trên mảnh trích đo hiện trạng khu đất do Chi nhánh Văn phòng Đ
duyệt ngày 22/01/2024 không thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO
550422, các đương sự không tranh chấp và không yêu cầu giải quyết nên HĐXX
không xem xét.
[17] Chi phí tố tụng bao gồm chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ,
chi phí định giá tài sản với tổng số tiền 5.322.000 đồng. Trong quá trình
giải quyết vụ án, nguyên đơn đã nộp tạm ứng. Tại phiên tòa, nguyên đơn tự
nguyện chịu chi phí này, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[18] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, ngày 15/7/2024 vợ chồng S
đã thanh toán số tiền 24 triệu đồng cho vợ chồng ông H, các bên có lập biên bản
giao nhận tiền nộp cho Toà án bản phô . Tại phiên toà, ông H ý kiến rút
yêu cầu, đề nghị HĐXX đình chỉ yêu cầu phản tố của ông. Xét thấy, việc rút yêu
cầu phản tố của bị đơn tự nguyện nên HĐXX đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố
của bị đơn về tranh chấp “Đòi lại tài sản”.
8
[19] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên nguyên đơn
không phải chịu án phí dân sự thẩm. Bị đơn phải chịu án phí dân ssơ thẩm
theo quy định. Đối với yêu cầu phản tố “Đòi lại tài sản”, bị đơn rút yêu cầu phản
tố nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí theo quy định
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 2, 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 147, 157, 158, 165, 166, điểm c Khoản 2 Điều 200, Điều 218, Khoản 2
Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Khoản 2 Điều 229, Khoản 1 Điều 244, Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 116, 117, 119, 129, 213, 502, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Điều 127 Luật Đất đai năm 2003;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngô Thị S về việc “Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với ông Ngô Xuân H.
Công nhận hiệu lực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Ngô Thị S, ông Trần Kim H1 ông Ngô Xuân H, Nguyễn Thị Thu T đối
với diện tích đất đo đạc thực tế là 224,9m
2
gồm 80m
2
đất ở và 144,9m
2
đất trồng
cây hằng năm khác được giới hạn bởi các điểm 9, 16, 3, 4, 9 trên mảnh trích đo
hiện trạng khu đất do Chi nhánh Văn phòng Đ duyệt ngày 22/01/2024, thuộc
thửa đất số 371, tờ bản đồ số 05 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số BO 550422 do UBND
huyện H, tỉnh Bình Thuận cấp ngày 30/5/2013 cho hộ ông Ngô Xuân H.
Ông Trần Kim H1, Ngô Thị S được quyền sử dụng diện tích 224,9m
2
gồm 80m
2
đất 144,9m
2
đất trồng cây hằng năm khác được giới hạn bởi các
điểm 9, 16, 3, 4, 9 trên mảnh trích đo hiện trạng khu đất do Chi nhánh Văn
phòng Đ ký duyệt ngày 22/01/2024.
Ông Trần Kim H1, bà Ngô Thị S được quyền liên hệ với quan Nhà
nước thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng biến động đất đai theo quy
định pháp luật.
2. Về tài sản trên đất: Các đương sự không tranh chấp nên không xem xét
3. Đối với 39,8m
2
nằm ngoài Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số BO
550422 được giới hạn bởi các điểm 1, 2, 8, 16, 9, 5, 1 trên mảnh trích đo hiện
trạng khu đất do Chi nhánh Văn phòng Đ duyệt ngày 22/01/2024, các đương
sự không tranh chấp nên HĐXX không xem xét.
9
4. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn tự nguyện chịu chi ptố tụng, không
yêu cầu giải quyết, nên HĐXX không xem xét
5. Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố “Đòi lại tài sản” của bị đơn yêu cầu
nguyên đơn phải trả số tiền thuế, phí chuyển mục đích lãi chậm trả là
24.000.000đ (Hai mươi bốn triệu đồng).
Đương sự quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án theo
quy định của pháp luật.
6. Án phí:
- Ngô Thị S không phải chịu án pdân sự thẩm. H3 lại cho S
300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự thẩm tại Biên lai số 0010511 ngày
23/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.
- Ông Ngô Xuân H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả cho ông Ngô Xuân H số tiền 600.000đ tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai số 0010851 ngày 09/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Hàm Tân.
7. Quyền kháng cáo: Đương sự mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại
phiên tòa quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày
nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân s quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thùy Trang
10
Nơi nhận:
- VKSND huyện Hàm Tân;
- Chi cục THADS huyện Hàm Tân;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
11
12
13
14
Tải về
Bản án số 31/2024/DS-ST Bản án số 31/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 31/2024/DS-ST Bản án số 31/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất