Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của TAND huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 31/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 31/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của TAND huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng |
|---|---|
| Tội danh: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Hạ Lang (TAND tỉnh Cao Bằng) |
| Số hiệu: | 31/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 21/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | bị cáo Hoàng Thị T phạm tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HẠ LANG
TỈNH CAO BẰNG
Bản án số: 31/2023/HS-ST
Ngày 21-12-2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ LANG, TỈNH CAO BẰNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lục Văn Doanh
Hội thẩm nhân dân:
Ông Nông Thanh Lù.
Bà Nông Thị Điềm.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Mai Hoa - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Hạ
Lang, tỉnh Cao Bằng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng tham
gia phiên tòa: Ông Thẩm Minh Đức - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Lang, tỉnh
Cao Bằng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số: 30/2023/TLST-
HS ngày 06 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
982/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Hoàng Thị T, sinh ngày 28 tháng 12 năm 1981, tại xóm P, xã C, huyện B,
tỉnh Cao Bằng.
Nơi đăng ký thường trú: Xóm S, xã Đ, huyện B, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp:
Lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và bà Lý Thị N;
Chồng: Trần Thanh T, con: có 01 con sinh năm 2007; tiền án: Không;
Tiền sự: Tháng 4/2023 bị Hạt kiểm lâm huyện Hạ Lang, xử phạt 8.000.000 đồng
về hành vi vi phạm quy tắc khai thác rừng.
Về nhân thân: 02 lần bị Công an phường Sông Hiến xử phạt tiền về hành vi
đánh bạc vào năm 2007, 2008; 01 lần bị Công an tỉnh Cao Bằng xử phạt tiền về
hành vi đánh bạc vào năm 2012. Tuy nhiên, đều đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm
hành chính.
Bị cáo không bị bắt giam, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày
21/8/2023 cho đến nay. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đoàn Thị Tâm - Trợ giúp viên pháp lý,
thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Mã Văn A, sinh năm 1976. Vắng mặt.
2. Bà Mông Thị H, sinh năm 1976. Vắng mặt.
3. Bà Mã Thị K, sinh năm 1965. Vắng mặt.

2
Đều cư trú tại: Xóm C, xã Q, huyện L, tỉnh Cao Bằng.
4. Ông Phủng Chỉn M, sinh ngày 1980. Vắng mặt.
5. Ông Phủng Sài C, sinh năm 1984. Có mặt.
6. Ông Phủng Chỉn P, sinh năm 1979. Có mặt.
7.Ông Tẩn Dấu L, sinh năm 1983. Có mặt.
8. Anh Phủng Sỉnh L1, sinh năm 2000. Có mặt.
9. Anh Phủng Tòn L2, sinh năm 1997. Có mặt.
10. Anh Tẩn Dấu P1, sinh năm 1990. Có mặt.
11. Anh Tẩn Dấu N, sinh năm 1990. Vắng mặt.
12. Anh Tẩn Dấu T, sinh năm 1990. Có mặt.
13. Anh Tẩn Phù G, sinh năm 1991. Có mặt.
14. Anh Tẩn Phụ P2, sinh năm 2002. Có mặt.
Đều cư trú tại: Xóm M, xã C, huyện B, tỉnh Cao Bằng.
15. Triệu Tòn N (con ông Phủng Chỉn M), sinh năm 2004. Vắng mặt.
Trú tại: xã T, huyện N, tỉnh Cao Bằng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 35 phút ngày 11/10/2022, sau khi nhận được tin báo về việc
khai thác rừng Ủy ban nhân dân (UBND) xã Lý Quốc đã cử người đến khu rừng
phòng hộ có tên gọi là R, thuộc xóm C, xã Q, huyện L để kiểm tra thì thấy 12
người gồm: Phủng Chỉn M, Phủng Sài C, Phủng Chỉn P, Tẩn Dáu L, Phủng Sỉnh
L1, Phủng Tòn L2, Tẩn Dấu P1, Tẩn Dấu N, Tẩn Dấu T, Tẩn Phù G, Tẩn Phụ P2
và Triệu Tòn N đang khai thác cây Thông, sự việc được lập biên bản và người
được mời về trụ sở để làm rõ. Ngày 12/10/2023, UBND xã phối hợp với Hạt
kiểm lâm huyện Hạ Lang tiến hành kiểm tra hiện trường, kiểm đếm gỗ Thông bị
khai thác tại vị trí thứ nhất thuộc rừng của ông Mã Văn A bị khai thác là 15 gốc,
được cắt thành 53 khúc gỗ với khối lượng được tính là 4,492 m
3
, tại vị trí thứ hai
là rừng của hộ gia đình bà Mông Thị H, với số lượng Thông bị khai thác là 88
gốc, được cắt thành 563 khúc, với khối lượng được tính là 29,592 m
3
. Xác định
việc khai thác rừng có dấu hiệu của tội phạm, nên Hạt kiểm lâm huyện Hạ Lang
đã quyết định khởi tố vụ án hình sự, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cho Công an
huyện Hạ Lang khởi tố bị can theo quy định.
Quá trình điều tra chứng minh được: Tháng 01 năm 2022, Hoàng Thị T hợp
đồng với Trung tâm điều tra quy hoạch thiết kế nông lâm nghiệp thuộc Sở Nông
nghiệp tỉnh Cao Bằng, để xây dựng phương án khai thác cây Thông tại rừng

3
phòng hộ của 15 hộ dân tại xóm C, xã Q, huyện L do bà Mã Thị K làm đại diện.
Sau khi có phương án khai thác, T đã cho người đến kiểm tra ranh giới, trả tiền
gỗ sẽ khai thác cho hộ gia đình ông Mã Văn A là 34.700.000 đồng, trả tiền gỗ sẽ
khai thác cho hộ gia đình bà Mông Thị H là 52.200.000 đồng (còn nợ Huệ 15
triệu). Sau khi trả tiền, T đã thuê ông Phủng Chỉn M đem theo 11 người vào khai
thác với mỗi m
3
được cắt khúc và đưa lên xe là 500.000 đồng. Số Thông được
khai thác tại rừng ông A là 15 cây, được cắt thành 53 khúc, tương đương với
4,492 m
3
; số Thông được khai thác tại rừng bà H là 88 cây, được cắt thành 536
khúc tương đương với 29,592 m
3
. Đối chiếu với phương án khai thác của Trung
tâm Điều tra quy hoạch thiết kế Nông lâm nghiệp Cao Bằng thì số Thông bị khai
thác tại rừng ông A không nằm trong phương án thiết kế được khai thác, số
Thông khai thác tại rừng của bà H là Lô 21, Lô 22 thuộc khoảnh 2A, tiểu khu
270 đều nằm trong phương án thiết kế khai thác, nhưng chỉ được khai thác từ
năm 2025 và năm 2026.
Tại Bản Cáo trạng số 29/CT-VKSHL ngày 30 tháng 10 năm 2023 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Hạ Lang đã truy tố bị cáo Hoàng Thị T về tội: Vi phạm
quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản, theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 232 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa: Bị cáo Hoàng Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã
thực hiện như bản Cáo trạng đã truy tố. Nguyên nhân bị cáo thực hiện hành vi là
do nhận thức pháp luật còn hạn chế, cứ nghĩ rừng đã có phương án thiết kế và đã
trả tiền cho người trồng rừng là được khai thác, nên dẫn tới phạm tội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là những người trực tiếp
khai thác gỗ Thông có mặt tại phiên toà, đều xác định ông Phủng Chỉn M là
người trực tiếp hợp đồng với bị cáo T, hiện nay ông M đã đi miền Nam chưa trả
tiền công cho những người chặt cây, nên trách nhiệm trả tiền thuộc về ông Mìn.
Tại cơ quan điều tra, ông Mã Văn A và bà Mông Thị H đều xác nhận khi mua
cây bị cáo T đều cho rằng thủ tục, giấy tờ khai thác thì T tự lo hết nên mới đồng
ý bán cây. Đối với số tiền cây còn thiếu, bà H không có yêu cầu bị cáo phải trả
thêm, vì cây chưa được khai thác hết.
Kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên nội
dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo Hoàng Thị T, sau khi phát biểu quan điểm
về việc giải quyết vụ án, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị
cáo gây ra, đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2
Điều 232; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 BLHS. Tuyên bố: Bị cáo
Hoàng Thị T phạm tội Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản.

4
Áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, xử phạt bị cáo Hoàng Thị T với số
tiền phạt từ 300 triệu đến 320 triệu đồng. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều
47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu phát
mại số gỗ bị thu giữ là 34,084 m
3
để sung công quỹ nhà nước. Về phần dân sự:
Không có yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Bị cáo được miễn
án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Người bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm: Nhất trí với đề nghị của
Kiểm sát viên về trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét thêm trình độ học vấn của bị cáo, do khả năng đọc và viết bị hạn chế
nên đã có hành vi cho phép người khai thác không đúng lô đất chưa đủ điều kiện
khai thác hoặc khai thác không đúng năm đã được quy định, cho bị cáo được xử
phạt tiền ở mức thấp nhất của khung hình phạt.
Những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến tranh luận. Trong lời
nói sau cùng bị cáo Hoàng Thị T xin được giảm nhẹ mức phạt tiền để bị cáo
nhanh chóng trả xong khoản tiền phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng Điều tra
viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm
quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không ai có ý kiến
hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các
hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ
án đều hợp pháp.
[2]. Về sự vắng mặt của một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
những người vắng mặt Những người vắng mặt đã được triệu tập hợp lệ 02 lần
nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, xét thấy sự vắng mặt của những người này
không làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, nên căn
cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
vụ án theo thủ tục chung.
[3]. Về hành vi mà bị cáo đã thực hiện và các yếu tố cấu thành tội phạm:
Ngày 11/10/2022 Hoàng Thị T đã thuê 12 nhân công do Phủng Chỉn M làm tổ
trưởng đến khai thác cây Thông, trồng tại rừng phòng hộ tại khu vực có tên gọi
là R, thuộc xóm C, xã Q, huyện L, tỉnh Cao Bằng, số lượng thông bị khai thác tại
02 vị trí như sau:
- Vị trí thứ nhất là thửa đất số 45, tờ bản đồ số 2, có diện tích là 10.038 m
2

5
được UBND huyện Hạ Lang cấp cho hộ ông Mã Văn A và bà Thẩm Thị I vào
năm 2006. Theo bản đồ kiểm kê rừng năm 2015, xã Lý Quốc thì số cây Thông bị
chặt thuộc thửa số 45, lô 71, khoảnh 2A, tiểu khu 270. Số diện tích bị khai thác
là 110 m
2
, số cây bị chặt là 15 cây Thông, số lượng gỗ bị khai thác được tính là
4,492 m
3
.
- Vị trí thứ hai bị khai thác là thửa số 41 tờ bản đồ số 2, có diện tích12.627
m
2
được UBND huyện Hạ Lang cấp cho hộ ông Mã Đức D và bà Mông Thị H
vào năm 2006. Theo bản đồ kiểm kê rừng năm 2015, xã Lý Quốc thì số cây
Thông bị chặt thuộc thửa số 41, lô 72, khoảnh 2A, tiểu khu 270. Số diện tích bị
khai thác là 2.200 m
2
, số cây bị chặt là 88 cây Thông, số lượng gỗ bị khai thác
được tính là 29,592 m
3
.
Đối chiếu với phương án khai thác rừng Thông trồng tại xóm Bằng Ca, xã
Lý Quốc do Trung tâm Điều tra thiết kế Nông lâm nghiệp Cao Bằng đã lập thì lô
71 của ông A, bà I không nằm trong phương án khai thác. Đối với lô 72 của ông
D, bà H nằm trong phương án khai thác do Trung tâm điều tra thiết kế Nông lâm
nghiệp Cao Bằng lập thì thuộc lô số 21 và lô số 22 nhưng 02 lô chỉ được phép
khai thác trong năm 2025 và năm 2026.
Theo điểm b khoản 3 điều 55 luật Lâm nghiệp có quy định: “Được khai thác
cây trồng chính khi đạt tiêu chuẩn khai thác theo phương thức khai thác chọn
hoặc chặt trắng theo băng, đám rừng” và tại điểm b, c khoản 3 Điều 20 của Nghị
định 156/2018 hướng dẫn khoản 3 Điều 55 Luật Lâm nghiệp có ghi rõ về điều
kiện và phương thức khai thác: “b) chủ rừng phải lập phương án khai thác gỗ
theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn”;c) Phương thức khai
thác: Khai thác tỉa thưa cây trồng chính phải bảo đảm mật độ còn lại ít nhất 600
cây/ha và phân bố đều trong lô. Khai thác chọn cây trồng chính cường độ không
quá 20% trữ lượng. Khai thác trắng theo băng thì chiều rộng băng không quá 30
m; khai thác trắng theo đám thì diện tích đám không quá 3 ha, tổng diện tích khai
thác hằng năm không vượt quá 20% tổng diện tích rừng đã đạt tiêu chuẩn phòng
hộ.
Theo quy định này, số Thông bị khai thác trên thửa đất của ông A, bà I
không nằm trong phương án khai thác. Đối với lô số 21, lô 22 là gỗ của rừng ông
D, bà H là nằm trong phương án khai thác nhưng 02 lô này chỉ được khai thác
trong năm 2025 và năm 2026, số gỗ được khai thác trong năm 2022 đã được bị
cáo T khai thác hết, nên việc khai thác gỗ trong rừng phòng hộ khi chưa xây
dựng phương án và khai thác rừng không đúng năm theo phương án là khai thác
trái phép, làm ảnh hưởng đến chức năng phòng hộ của rừng, là vi phạm khoản 1
Điều 19 của Nghị định 156/2018 và điểm b khoản 3 Điều 55 của Luật lâm
nghiệp.
Khi thực hiện hành vi khai thác rừng, bị cáo là người có đầy đủ năng lực

6
hành vi, nhận thức được việc khai thác gỗ trong rừng phòng hộ là phải có
phương án khai thác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khai thác đúng diện
tích và lô rừng được phê duyệt nhưng chỉ vì sự hạn chế về khả năng đọc văn bản,
sự chủ quan đã không kiểm tra trước khi khai thác, vì mục đích tư lợi cá nhân,
muốn có tiền tiêu bị cáo đã thực hiện hành vi khai thác gỗ trái phép trong rừng
phòng hộ, tổng số gỗ mà bị cáo T đã khai thác trái phép là 34,084 m
3
. Hành vi
phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý
của Nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng là một trong các đối tượng quan trọng
được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại
địa phương. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với các
lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ và có
đủ các yếu tố cấu thành tội phạm nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Lang
truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về khai thác bảo vệ rừng và lâm sản”
theo điểm c khoản 2 Điều 232 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước khi xét xử
lần này, bị cáo đã có hành vi khai thác rừng tự nhiên trái phép tại địa bàn huyện
Hoà An, mặc dù số lượng gỗ đã khai thác chưa đến mức truy tố, nhưng do trước
đó vào tháng 4/2023 bị cáo có hành vi khai thác trái phép tại Hạ Lang và đã bị
Hạt kiểm lâm huyện Hạ Lang xử phạt hành chính nên bị cáo đã bị Toà án nhân
dân huyện Hoà An xét xử và xử phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo về tội
“Vi phạm quy định về khai thác bảo vệ rừng và lâm sản” theo khoản 1 Điều 232
BLHS. Tuy nhiên, hành vi phạm tội lần này thuộc trường hợp phạm tội trước
nhưng xử sau, nên không thể coi là tình tiết “Tái phạm” cũng như không thể coi
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Trong lần phạm tội này,
do số lượng gỗ bị khai thác trên mức khởi điểm tại khoản 2 Điều 232 BLHS và
điều luật có quy định: “Phạm tội trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền
từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng”. Do tại phiên toà, bị cáo đã nộp
được 100.000.000 đồng với mục đích là được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt
chính và tại phiên toà bị cáo có nộp một số tài liệu để chứng minh về khả năng
đáp ứng được số tiền phạt còn lại, nên không cần áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với bị cáo.
Đối với những người được bị cáo T thuê đến chặt cây và bốc xếp gỗ lên xe
ô tô để đem đi bán, được xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,
những người này khi đến khai thác đều được T thông báo là đã làm đầy đủ các
thủ tục về giấy tờ trước khi khai thác và họ cũng không biết T khai thác gỗ là trái
phép, nên Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự là đúng quy định của
pháp luật.
Đối với các chủ rừng là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử

7
dụng đất đối với các thửa đất rừng bị khai thác nhưng bản thân các chủ rừng
cũng không biết việc bị cáo T khai thác trái phép nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với số tiền công của những người chặt cây do trong quá trình điều tra
đều không có yêu cầu và bà Mông Thị H không có yêu cầu đối với số tiền mua
cây mà bị cáo chưa trả, nên không có căn cứ để xem xét.
Đối với số cây Thông bị chặt hạ có khối lượng là 34,084 m
3
được coi là vật
chứng của vụ án, đã được bàn giao cho cơ quan Thi hành án dân sự huyện Hạ
Lang nên cần tịch thu sung công.
[5]. Về án phí: Bị cáo Hoàng Thị T là người bị kết án nhưng bị cáo là người
dân tộc thiểu số, sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và có đơn
xin miễn án phí nên được miễn theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy
định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 232; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều
50; Điều 35 của Bộ luật hình sự.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị T phạm tội Vi phạm quy định
về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản.
2. Về hình phạt: Áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính.
Xử phạt bị cáo Hoàng Thị T 310.000.000đ (ba trăm mười triệu đồng) để sung
công quỹ nhà nước. Xác nhận bị cáo đã nộp 100.000.000 đồng, nay còn phải nộp
thêm 210.000.000 đồng.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự;
khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu 34,084 m
3
gỗ Thông để sung công quỹ nhà nước. Xác nhận số gỗ thông
nêu trên đã được bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hạ Lang.
4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy
định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Bị cáo Hoàng Thị Thuỷ được miễn 200.000 đồng án phí hình sự.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng
hình sự;

8
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án,
những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo Bản
án liên quan đến phần quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong hạn 15 ngày kể từ
tuyên án, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền
kháng cáo Bản án liên quan đến phần quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt, niêm yết hợp
lệ.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Cao Bằng;
- VKSND tỉnh Cao Bằng;
- Sở tư pháp tỉnh Cao Bằng;
- VKSND huyện Hạ Lang;
- Công an huyện Hạ Lang;
- CCTHADS huyện Hạ Lang;
- UBND xã Bạch Đằng;
- Bị cáo;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lục Văn Doanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm