Bản án số 30/2019/DS-PT ngày 05/04/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp kiện đòi tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 30/2019/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 30/2019/DS-PT ngày 05/04/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp kiện đòi tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Số hiệu: 30/2019/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/04/2019
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản giữa Dương Thanh H khởi kiện Nguyễn Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẮC GIANG
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 30/2019/DS-PT.
Ngày: 05/04/2019
V/v: “Tranh chấp kiện đòi tài
sản”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- chủ toạ phiên t: Ông Bạch Đăng Thi
Các thẩm phán: Ông Lương Xuân Lộc
Bà Trần Thị Hà
Thư ký phiên toà: Ông Dương Đình Hưng, Thư Toà án nhân n tỉnh
Bắc Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang: Ông Nguyễn Đức Sơn,
Kiểm sát viên.
Ngày 05/04/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2019/TLPT- DS ngày 30 tháng 01 năm 2019.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 20/2018/DS-ST ngày 14/11/2018 của Toà án
nhân dân huyện Việt Yên bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 70/2019/QĐ-PT ngày
18/3/2019 giữa:
-Nguyên đơn: Ông Dương Thanh H, sinh năm 1944 (có mt)
Địa chỉ: Thôn B, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang.
-B đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1947 (có mt)
Địa ch: Thôn B, xã V, huyn V, tnh Bc Giang.
-Người có quyn lợi nghĩa vụ liên quan:
1. U ban nn dân V, huyn V, tnh Bc Giang. Do ông Văn H1,
Chc v: Ch tịch UBND đi din. Người đi din theo y quyn: Anh Thân
Đức S, sinh năm 1984 (Xin xét x vng mt).
Địa ch: Thôn B, xã V, huyn V, tnh Bc Giang.
2. Anh Thân Đức S, sinh năm 1984, Trưởng thôn B (xin vng mt)
Địa ch: Thôn B, xã V, huyn V, tnh Bc Giang.
3. Bà Hoàng Th V, sinh năm 1942
y quyn cho ông Dương Thanh H tham gia t tng (Ông H có mt).
2
4. Bà Nguyn Th T1, sinh năm 1948 (có mt).
Địa chỉ: Thôn B, xã V, huyện V, tỉnh Bắc Giang;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án thẩm các tài liệu trong hồ vụ án thì nội dung vụ án
như sau:
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 15/11/2016 bản tự khai, biên bản lấy lời
khai nguyên đơn ông Dương Thanh H trình bày:
Ông và ông Nguyễn Văn T là hàng xóm cùng thôn với nhau. Năm 1996, Hợp
tác B bàn bạc làm đường điện cao thế, hạ thế đđưa điện về với dân trong
thôn. Ông đứng ra nhận làm công trình đường điện đó với giá 80.000.000 đồng
nhưng các bên chỉ có nói miệng với nhau chứ chưa ứng hay thanh toán gì với nhau.
Tuy nhiên sau khi vào thi công, ông đã bán lại công trình đó cho người khác. Hợp
tác biết về việc này. Do thời điểm đó HTX B hạn hẹp về kinh tế nên đã vận
động người dân trong thôn ai tiền thì cho Hợp tác vay đlàm đường điện.
Ngày 17/11/1996, ông trực tiếp mang tiền đến cho ông T (khi đó thư kiêm
thủ quỹ) nhậnviết giấy biên nhận với ông số tiền 7.000.000 đồng. Khi giao tiền
cả ông C trưởng thôn và ông P kế toán kiêm phó thôn biết nhưng không
ý kiến gì. Khi cho vay, hai bên thỏa thuận miệng về lãi suất là 2%/01 tháng, không
thỏa thuận về thời hạn chỉ thỏa thuận khi nào thôn làm xong đường điện sẽ
thanh toán trả ông cả gốc lãi. Năm 1996, HTX thu sản của gia đình ông, ông T
đã viết giấy biên nhận trong đó tính lãi là 140.000 đồng. Điều đó khẳng định là ông
T vay của ông 7.000.000 đồng cho HTX lúc bấy giờ. Ông xác định số tiền
7.000.000 đồng là ông cho HTX B vay.
Ngoài ra, ngày 13/8/2000, máy biến thế của thôn B bị cháy, người dân trong
thôn không tiền sửa máy nên HTX lại vận động người dân ai tiền thì cho
HTX vay. Ông đã đứng ra cho ông T vay là 4.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng, thời
hạn vay 2 tháng. Khi cho vay ông T người trực tiếp viết giấy sự chứng kiến
của ông L thủ quỹ (đã chết). Ông xác định khoản tiền trên khoản vay của
nhân ông T chứ không phải của HTX B. Việc ông T vay cho HTX hay cho ai ông
không biết. Kể tkhi vay đến nay chưa trả được cho ông đồng nào. Nay ông yêu
cầu ông T phải trả ông tổng số tiền gốc là 11.000.000 đồng và lãi.
Trong quá trình làm việc, ngày 27/3/2018 ông đơn xin rút yêu cầu đối với
khoản vay 7.000.000 đồng của HTX Bkhông yêu cầu HTX phải trả ông số tiền
7.000.000 đồng nữa. Nay ông chỉ yêu cầu ông T trả ông số tiền gốc 4.000.000 đồng
và số tiền lãi kể từ ngày 13/8/2000 đến khi xét xử sơ thẩm.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải bị đơn Ông Nguyễn
Văn T trình bầy:
Ông ông Dương Thanh H người cùng thôn với nhau. Năm 1996, ông
làm thư kiêm thủ quỹ thôn B, ông C làm trưởng thôn, ông P làm kế toán kiêm
phó thôn. Cùng năm đó, chính quyền thôn B bàn bạc thống nhất làm trạm biến thế
đđưa đường điện về thôn. Ông H đứng ra nhận làm công trình trạm biến thế đó.
Theo thỏa thuận thì ông H phải nộp tiền đặt cọc khi nhận công trình 7.000.000
3
đồng, tránh trường hợp ông H bỏ ngang chừng không làm. Ông là thủ quỹ lúc bấy
giờ nên là người đứng ra nhận tiền của ông H. Khi nhận tiền, ông viết giấy biên
nhận cho ông H vào ngày 17/11/1996, hai bên thỏa thuận miệng lãi suất 2%/ 1
tháng. Khi nào ông H hoàn thành công trình biến thế của thôn tHTX trách
nhiệm đứng ra thanh toán cho ông H tiền ng trình, tiền đặt cọc tiền lãi. Tuy
nhiên,ông xác định số tiền 7.000.000 đồng khoản tiền đặt cọc của ông H đấu
thầu tiền làm đường điện biến thế của thôn chứ không phải số tiền ông vay của
nhân ông H.Thực tế khi làm đường điện thôn Bxong thì kế toán thôn là ông Phong
đã thanh toán đầy đủ số tiền công trình biến thế trên cùng tiền đặt cọc 7.000.000
đồng và tiền lãi cho ông H. Vì vậy, ông xác định cá nhân ông không vay của ông H
số tiền trên và xác nhận thôn B cũng đã thanh toán xong cho ông H số tiền trên.
Đến m 2000, ông chủ nhiệm HTX B, ban lãnh đạo HTX lúc đó gồm
ông Dương Thanh H làm trưởng ban kiểm soát, ông Dương Văn Báu làm kế toán,
ông Trần Văn L làm thủ quỹ (đã chết). Thời điểm đó, trạm biến thế bị cháy nên
thôn B phải thuê sửa chữa. Ban lãnh đạo triển khai kế hoạch thu tiền của dân, mỗi
đầu người từ 18 tuổi trở lên nộp 100.000 đồng để trả tiền sửa chữa trạm biến thế.
Tuy nhiên, do số hộ nghèo, tàn tật trong thôn khoảng 20 hộ không có tiền đóng nên
thiếu tiền để trả tiền sửa chữa biến thế nên HTX và thôn cùng nhau thống nhất huy
động người dân trong thôn ai tiền thì cho HTX vay. Ông H đứng ra cho HTX
vay 4.000.000 đồng. Khi cho vay, ông người viết giấy nhận sự chứng
kiến của ông Lừng, lãi suất cho vay 2%/1 tháng, thời hạn vay 2 tháng. Ông
xác định đây khoản tiền vay của HTX thôn B chkhông phải của nhân ông.
Nội dung thỏa thuận vay ông kết vào giấy vay tiền với ông H đều sự
thông qua, nhất trí của ban lãnh đạo thôn, cấp ủy thôn. Tháng 3/2001, do sức khỏe
yếu nên ông xin nghỉ làm chnhiệm HTX ông Dương Ngô B làm chủ nhiệm
thay. Ông đã bàn giao toàn bộ công việc, giấy tờ, sổ sách và số dư nợ của thôn cho
ông B (bao gồm cả số tiền HTX nông H). Từ năm 2001 đến nay, ông không nắm
được việc giải quyết về số tiền nợ ông H như thế nào. Nay ông H rút yêu cầu đối
với khoản tiền 7.000.000 đồng ông hoàn toàn nhất trí. Đối với khoản tiền
4.000.000 đồng sau khi thôi làm chủ nhiệm HTX B ông đã bàn giao toàn bộ lại cho
ông B nên đến nay ông không liên quan gì. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định pháp luật.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
-UBND xã V, huyện V do ông Thân Đức S đại diện theo ủy quyền trình bầy:
Hiện nay stiền ông Nguyễn Văn T vay của ông Dương Thanh H ngày 13/8/2000
cho Hợp tác xã B đã được bàn giao cho thôn B quản lý. Số tiền thực tế khi bàn giao
3.732.000 đồng (do trong số tiền vay 4.000.000 đồng đã trừ đi số tiền gia đình
ông H phải nộp). Nếu ông H nhất trí UBND xã V sẽ yêu cầu thôn B trả ông số tiền
trên, còn nếu ông H không nhất trí thì ông không có quyền được đòi lại thôn số tiền
trên.
-Ông Thân Đức S Trưởng thôn Btrình bầy: Ông hiện đang trưởng thôn
B nhiệm kỳ 2014 2019. Ông nhận bàn giao từ Ban lãnh đạo thôn cũ công nợ
của thôn đối với ông Dương Thanh H, cụ thể sau khi kiểm tra sổ sách ông thấy
4
khoản ncủa thôn đối với ông Dương Thanh H là 3.732.000 đồng. Ông xác định
ông T vay của ông H số tiền theo giấy vay ngày 13/8/2000 vay cho Hợp tác
B(nay là thôn B) chứ không phải là khoản vay của cá nhân ông T. Nếu ông H đồng
ý, ban lãnh đạo thôn B sẽ trả ông H số tiền trên, còn nếu ông H không đồng ý thì đ
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
-Bà Hoàng Thì V trình bầy: Bà không liên quan gì đến việc ông H cho ông T
vay tiền. do tuổi cao xin được vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp,
hòa giải và xét xử tại Tòa án.
-Bà Nguyễn Thị T1 trình bầy: Năm 2000 chồng bà ông Nguyễn Văn T là chủ
nhiệm HTX B. Được sự thống nhất của Ban lãnh đạo HTX và Ban chi ủy, ông T đã
vay ông Dương Thanh H 4.000.000 đồng cho HTX để xây dựng đường điện hạ thế
mua máy biến thế cung cấp điện cho nhân dân trong thôn. Khi đó, ông Nguyễn
Văn L (đã chết) là thủ quỹ đã ký nhận và nhập quỹ chi tiêu cho tập thể nên gia đình
bà không liên quan gì đến số tiền trên.
Tại phiên tòa hôm nay, ông H vẫn giữ yêu cầu của mình, cụ thể ông yêu cầu
ông T phải trả ông số tiền 4.000.000 đồng lãi suất 2%/tháng từ ngày 13/8/2000
đến năm 2005. Từ năm 2006 cho đến khi xét xử thẩm thì theo mức lãi suất của
Ngân hàng Nhà nước còn đối với số tiền 7.000.000 đồng, ông đãđơn xin rút yêu
cầu từ tháng 3/2018, đến nay ông không yêu cầu giải quyết đối với số tiền
7.000.000 đồng.
Ông xác định, thời điểm ông cho ông T vay khi đó ông T chủ nhiệm HTX
B còn ông trưởng Ban kiểm soát, ông T vay ông tiền khi máy biến thế của thôn
bị cháy, cần phải sửa chữa. Ông biết ông T vay cho HTX, còn ông T đưa cho
HTX hay không thì ông không biết. Hết thời hạn vay ông đòi ông T, sau đó ông
cũng đòi cả HTX. Tuy nhiên đến nay ông xác định ông cho ông T vay với cách
nhân chứ không cho HTX vay (nay thôn B vay) nên ông yêu cầu ông T phải
trả ông số tiền gốc 4.000.000 đồng và lãi suất 2%/tháng từ ngày 13/8/2000 đến
năm 2005. Từ năm 2006 cho đến khi xét xử sơ thẩm thì theo mức lãi suất của Ngân
hàng Nhà nước kể cả lãi quá hạn.
Ông Nguyễn Văn T trình bầy: Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
ông H. Ông xác nhận ông không vay tiền của ông H với tư cách là cá nhân ông vay
ông vay cho HTX B (khi đó ông làm chủ nhiệm HTX B). Việc ông vay ông H
để sửa chữa biến thế của thôn bị cháy, nổ nhưng chưa thu được tiền trong dân đ
trả. Ông vay ông H sự đồng ý của Ban lãnh đạo HTX xin ý kiến của chi
bộ (do ông T2 Bí thư chi bộ). Ngoài khoản vay ông H, HTX còn vay của cả ông
Y nhưng số tiền vay ông Y HTX đã trả. Khi vay viết giấy biên nhận, thỏa
thuận lãi suất và thời hạn trả nợ. Việc ông vay ông H là vay cho HTX B chứ không
phải nhân ông vay ông H (có phiếu biên nhận nộp tiền vào HTX) nên ông
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H.
Nguyễn Thị T1 trình bầy: Bà biết ông T vay tiền của ông H nhưng là vay
cho HTX B thời điểm đó ông T làm chủ nhiệm HTX B. không đồng ý với
yêu cầu của ông H ông T không vay tiền mang về nhà nên không phải khoản
vay của cá nhân ông T.
5
UBND V, anh Thân Đức S, Hoàng Thị V xin xét xử vắng mặt do vậy
HĐXX công blời khai của UBND V, anh Thân Đức S, Hoàng Thị V. Ông
H, ông T, bà T1không có ý kiến gì về những lời khai đó.
Với nội dung trên, bản án dân sự thẩm số 20/2018/DS-ST ngày
14/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đã xử :
Căn cứ: Khoản 2 điều 26, điều 35; điều 39; điều 147; Điều 217; điều 235; điều
271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 2 Nghị quyết 103/2015/QH
ngày 25/11/2015 của Quốc Hội.
Điều 467 Bluật dân sự 1995. Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Thanh H yêu cầu Ông
Nguyễn Văn T phải trả ông 4.000.000 đồng và lãi suất 2%/tháng từ ngày 13/8/2000
đến năm 2005. Từ năm 2006 cho đến khi xét xử thẩm thì theo mức lãi suất của
Ngân hàng Nhà nước và lãi quá hạn.
2. Đình chỉ đối với yêu cầu của ông ơng Thanh H yêu cầu Ông Nguyễn
Văn T trả ông số tiền 7.000.000 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho c đương sự.
Ny 22/11/2018, ông Dương Thanh H nguyên đơn kháng o được miễn
nộp tiền tạmng án phí phúc thẩm. Nội dung kháng cáo: Kháng cáo toàn bbản án.
Tại phiên a phúc thẩm, Ông ơng Thanh H nguyên đơn không t đơn
khởi kiện không t đơn kng o. c đương sự kng t thỏa thuận được vi
nhau về giải quyết vụ án.
Ông ơng Thanh H trình y: giữ nguyênu cầu.
Ông Nguyn n T trình y: ginguyên yêu cầu.
+ Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang phát biểu:
- Về tố tụng: Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang các đương sự đã chấp hành
đầy đủ các trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015: Kng chấp nhận kháng o của ôngơng Thanh H, gi
nguyên bản án thẩm. Miễn án phí dân s phúc thẩm cho ông ơng Thanh H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà, ý kiến tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bắc Giang. Hội đồng xét xử nhận định:
Xét đơn kháng cáo của ông Dương Thanh H thì thấy:
[1]. Về thời hiệu khởi kiện hợp đồng dân sự: Theo quy định tại Điều 429 Bộ
luật dân sự 2015 03 năm ktừ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền
lợi ích hợp của mình pháp bị xâm phạm. Ông Dương Thanh H xác định cho Ông
Nguyễn Văn T vay 4.000.000 đồng năm 2000, đến năm 2017 ông H mới khởi kiện
ông T. Như vậy thời hiệu khởi kiện hợp đồng vay tài sản đã hết, ông H ch
quyền đòi lại tài sản.Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết 103/2015 ngày
25/11/2015 của Quốc Hội đã quy định “Đối với các tranh chấp phát sinh trước
6
ngày 01/01/2017 thì áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 159 Bluật Tố tụng
Dân sự 2011”. Theo quy định tại Điều 159 Bluật Tố tụng Dân sự thì “Đối với
tranh chấp về đòi lại tài sản thì không áp dụng về thời hiệu khởi kiện”. Do vậy
trường hợp này không áp dụng về thời hiệu khởi kiện.
[2]. ̀ quan hê
̣
pháp luật , thẩm quyền giải quyết: Ông H khởi kiện yêu cầu
ông T phải trả ông số tiền vay là 4.000.000 đồng và lãi suất. Tuy nhiên, việc ông H
khởi kiện đối với hợp đồng vay tài sản đã hết thời hiệu khởi kiện nên yêu cầu
tính lãi của ông H trong trường hợp này không căn cứ, cần xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp “kiện đòi tài sản” nên theo quy định của khoản 2 điều 26,
điều 35, điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện V.
[3]. Về pháp luật áp dụng và nội dung tranh chấp:
Ông H khởi kiện yêu cầu ông T trả ông số tiền 4.000.000 đồng lãi suất
2%/tháng từ ngày 13/8/2000 đến năm 2005. Từ năm 2006 cho đến khi xét xử
thẩm thì theo mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Ông T không đồng ý trả ông
H số tiền trên lãi suất ông xác định khoản vay đó ông vay cho HTX B
có bàn giao lại khi ông không làm và đến nay thôn B vẫn đang quản lý số tiền trên,
ông H xác định đó khoản vay nhân ông T do vậy luật nội dung để áp dụng
giải quyết đối với vụ án này là Bộ luật dân sự 1995.
Về nội dung tranh chấp, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại giấy vay tiền đngày
13/8/2000 thể hiện việc ông T vay số tiền 4.000.000 đồng vay cho Hợp tác
thôn B, trong giấy vay có chữ của ông H, ông T của ông L thủ quỹ, cụ thể
“Tôi Nguyễn n T xin vay cho HTX của ông Dương Thanh H...”. Sau khi vay số
tiền 4.000.000 đồng, ông T đã đem nộp số tiền trên vào quỹ của Hợp tác xã thôn cụ
thể tại Phiếu thu số 05 ngày 12/9/2000 với nội dung: Họ tên người nộp tiền: ông
Dương Văn H. do nộp: Cho HTX vay để trả tiền sửa máy biến áp. Số tiền:
4.000.000 đồng. Thủ trưởng đơn vị: ông T ký. Kế toán trưởng: ông B ký. Thủ quỹ:
ông L ký”. Qua xác minh với ông Dương Văn B nguyên kế toán HTX B năm 2000,
ông Hữu T2 nguyên bị thư chi bộ thôn B năm 2000, ông Nguyễn Minh Y
người cùng cho HTX B vay tiền năm 2000 và tại các biên bản ghi lời khai, hòa giải
của ông S trưởng thôn B hiện nay đều khẳng định việc ông T vay số tiền 4.000.000
đồng là vay cho Hợp tác của thôn B, khoản nợ này đã được bàn giao lại qua các
thời lãnh đạo thôn Bkhác nhau hiện nay thôn Bvẫn còn nông H, nay nếu
ông H nhất trí thì chính quyền thôn sẽ đứng ra trả lại cho ông H số tiền còn nợ trên.
Do vậy, có đủ căn cứ để khẳng định việc ông T vay số tiền trên của ông H là ông T
đứng ra vay cho Hợp tác xã B (nay là thôn B) chứ không phải vay cho cá nhân ông
T và hiện nay số tiền đó do lãnh đạo thôn B đang quản lý chứ ông T không quản lý.
Tuy nhiên, ông xác định không cho HTX B (nay là thôn B) vay mà chỉ cho cá nhân
ông T vay nên nay ông chỉ yêu cầu ông T trả lại cho ông số tiền 4.000.000 đồng
lãi suất không căn cứ, không đúng chủ thể nên không chấp nhận yêu cầu của
ông H đòi ông T phải trả số tiền 4.000.000 đồng lãi suất 2%/tháng t ngày
13/8/2000 đến năm 2005. Từ năm 2006 cho đến khi xét xử sơ thẩm thì theo mức lãi
suất của Ngân hàng Nhà nước và lãi quá hạn.
7
Tòa cấp thẩm đã xét xử không chấp nhận yêu cầu của ông H như vậy là
căn cứ, tại phiên tòa phúc thẩm ông Dương Thanh H không chứng cứ thêm
nên không có căn cứ nào để chấp nhận kháng cáo của ông H.
[4]. Đối với số tiền 7.000.000 đồng ông Dương Thanh H khởi kiện yêu cầu
Ông Nguyễn Văn T phải trả ông. Ngày 27/3/2018, ông H đơn xin rút đối với
yêu cầu này tại phiên tòa hôm nay ông H vẫn giữ nguyên việc rút yêu cầu của
mình. Việc rút yêu cầu hoàn toàn tự nguyện, ông T đồng ý với việc rút yêu cầu
đó nên cần căn cứ Điều 217 Bluật Tố tụng Dân sự 2015 để đình chỉ đối với yêu
cầu đó.
[5]. Về án phí: Ông Dương Thanh H người cao tuổi nên được miễn án phí
dân sự sơ thẩm, dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015:
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của Ông Dương Thanh H. Giữ nguyên bản án
sơ thẩm.
Căn cứ: Khoản 2 Điều 26, Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 217; Điều 235;
Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân s 2015; Điều 2 Nghị quyết
103/2015/QH ngày 25/11/2015 của Quốc Hội.
Điều 467 Bộ luật dân s 1995. Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Thanh H yêu cầu Ông
Nguyễn Văn T phải trả ông 4.000.000 đồng và lãi suất 2%/tháng từ ngày 13/8/2000
đến năm 2005. Từ năm 2006 cho đến khi xét xử thẩm thì theo mức lãi suất của
Ngân hàng Nhà nước và lãi quá hạn.
2. Đình chỉ đối với yêu cầu của ông Dương Thanh H yêu cầu Ông Nguyễn
Văn T trả ông số tiền 7.000.000 đồng.
[2]. V án phí: Ông Dương Thanh H được miễn án phí dân sự sơ thẩm, dân sự
phúc thẩm.
Án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND huyện Việt Yên;
- Chi cục THADS huyện Việt Yên;
- Các đương sự;
- Lưu HS, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã kí)
Bạch Đăng Thi
8
Tải về
Bản án số 30/2019/DS-PT Bản án số 30/2019/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất