Bản án số 290/2024/HNGĐ-ST ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 290/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 290/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 290/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 290/2024/HNGĐ-ST ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bắc Giang |
Số hiệu: | 290/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp hôn nhân G - T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 290/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 26-9-2024
V/v Ly hôn, tranh chấp nuôi con
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hà Văn Nâu.
Các Hội thẩm nhân dân:Ông Nguyễn Văn Chiến;
Ông Đỗ Văn Long.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Khôi – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà:
Bà Nguyễn Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 158/2024/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 6
năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
26/7/2024 và quyết định hoãn phiên tòa số: 168/2024/QĐST-HNGĐ ngày
26/8/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1995 (vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn A, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Hiện chị G đang lao động tại nước ngoài.
Người đại diện theo ủy quyền nhận văn bản tố tụng: Chị Nguyễn Thị L,
sinh năm 1995;
Địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1990 (vắng mặt)
Thường trú: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc
Giang.
Hiện anh T đang lao động tại nước ngoài không có địa chỉ cụ thể.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1961 (Vắng mặt);
- Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1958 (Vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị
G trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Thanh T kết hôn trên cơ sở tự
nguyện, đăng ký kết hôn ngày 25/10/2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L,
tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn,
vợ chồng không có tiếng nói chung, nguyên nhân là do vợ chồng có nhiều bất
đồng về quan điểm sống. Trong thời gian mâu thuẫn chị và anh T đã nhiều lần
nói chuyện với mong muốn tiếp tục chung sống với nhau để chăm sóc con
nhưng do bất đồng quan điểm quá lớn nên không có kết quả. Từ năm 2020 chị
và anh T không còn quan tâm đến nhau, mỗi người đều có cuộc sống riêng của
mình. Chị xác tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên chị
đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Thanh T.
Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Phương T2,
sinh ngày 20/8/2017. Hiện con chung đang sống cùng với mẹ anh T là bà
Nguyễn Thị Tuyết . Nay vợ chồng ly hôn chị đề nghị giao cháu T2 cho chị nuôi
dưỡng và đề nghị tạm giao cho bà Nguyễn Thị T1 chăm sóc, nuôi dưỡng trong
thời gian chị ở nước ngoài.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng chị không có, không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Ngoài ra chị G trình bày: Do chị bận công việc, chị không thể đến Tòa án
để tham tố tụng nên chị đề nghị vắng mặt trong các buổi làm việc, phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án nói trên.
Anh Nguyễn Thanh T là bị đơn không có mặt tại địa phương, không gửi
văn bản giấy tờ, tài liệu về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn S trình bày: Chị
G và anh T kết hôn năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T,
huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chị G và anh T chung sống
với nhau hạnh phúc đến năm 2017 anh T đi lao động tại Hàn Quốc, năm 2019
chị G sang Hàn Quốc lao động. Trong thời gian chị G, anh T ở Hàn Quốc có
mâu thuẫn gì hay không thì ông S không nắm được. Ông S có nghe anh T nói lại
là vợ chồng anh có mâu thuẫn từ khoảng năm 2022, đến Tết năm 2023 anh T có
lên chỗ chị G ở để hàn gắn tình cảm nhưng không đạt kết quả. Về con chung:
Chị G và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Phương T2, sinh ngày
20/8/2017 hiện đang sống cùng với gia đình ông.
Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, ông S đã thông báo cho anh T
biết việc chị G làm đơn ly hôn và yêu cầu giải quyết nuôi con chung nhưng anh
T không gửi văn bản trình bày ý kiến về cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và
từ chối cung cấp địa chỉ hiện tại của anh T tại nước ngoài. Trước khi đi lao động
tại nước ngoài thì chị G và anh T đều nhờ ông S chăm sóc, giáo dục cháu T2. Bà
Nguyễn Thị T1 là vợ ông S bị tai biến từ năm 2016, bà T1 bị liệt nửa người, việc
đi lại và chăm sóc bản thân gặp nhiều khó khăn nên ông S là người trực tiếp
chăm sóc cho cháu T2. Chị G đề nghị giao con chung cho chị G nuôi dưỡng và
tạm giao cho bà T1 nuôi dưỡng trong thời gian chị G ở nước ngoài, ông S không
3
đồng ý mà đề nghị Tòa án giao cháu T2 cho anh T nuôi dưỡng và tạm giao cho
ông nuôi dưỡng trong thời gian anh T ở nước ngoài. Về cấp dưỡng nuôi cháu T2
thì ông S không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra, ông S trình bày ông không thể đến Tòa án để tham tố tụng nên bà
đề nghị vắng mặt trong các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án nói trên.
Đối với bà Nguyễn Thị T1, Tòa án đã đến nhà bà T1 để lấy lời khai của bà
T1. Tuy nhiên, do bà T1 bị tai biến từ năm 2016, thường xuyên ốm phải đi điều
trị tại Bệnh viện, sức khỏe không đảm bảo nên Tòa án không lấy được lời khai
của bà T1.
Tại biên bản lấy lời khai cháu Nguyễn Phương T2 trình bày:
Hiện cháu đang sống cùng với ông, bà nội tại thôn H, xã T, huyện L, tỉnh
Bắc Giang. Nay, bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng sống cùng với bố và
ông, bà nội.
Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Nguyễn Thị G, ông Nguyễn Văn S vắng mặt và
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Thanh T, bà Nguyễn Thị T1 đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt.
Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai
của chị Nguyễn Thị G, biên bản lấy lời khai ông Nguyễn Văn S, cháu Nguyễn
Phương T2 và thông qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu về việc tuân
theo pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án
đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.
Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị G,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn S có đơn xin xét xử
vắng mặt, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định
trong Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Nguyễn Thanh T không có địa chỉ cụ
thể ở nước ngoài, Tòa án đã niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng đối với bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T1 vắng mặt. Căn cứ các
quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt anh T, bà T1 là đúng
theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1
Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 104, khoản 2 Điều
123, Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35,
điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều
228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;
điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:
Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị G được ly hôn anh Nguyễn Thanh T.
Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Phương T2, sinh ngày 20/8/2017
cho anh Nguyễn Thanh T nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi
có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, tạm giao cho ông Nguyễn Văn
S nuôi dưỡng trong thời gian anh T ở nước ngoài.
4
Về án phí: Chị Nguyễn Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
Nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên
toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thẩm quyền giải quyết, quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn
Thị G khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Thanh T và yêu cầu giải quyết nuôi con
chung. Chị G, anh T hiện đang ở nước ngoài, không có địa chỉ cụ thể của anh T.
Theo công văn số: 14323/QLXNC-P3 ngày 04/7/2024 của Cục Q - Bộ C cung
cấp, chị G xuất cảnh ngày 26/02/2020, anh T xuất cảnh ngày 23/8/2018, hiện
chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Vì vậy, đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp
về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do vụ án có
nguyên đơn, bị đơn hiện nay đang ở nước ngoài. Địa chỉ cuối cùng của anh T ở
Việt Nam tại: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang, nên vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang theo quy định tại khoản 3
Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về việc vắng mặt của đương sự:
Về việc vắng mặt của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Văn S vắng mặt, đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét
xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị G, ông
S. Bà Nguyễn Thị T1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, Hội
đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà
T1.
Về sự vắng mặt của bị đơn: Căn cứ theo lời khai của nguyên đơn, ông S (là
bố anh T), Hội đồng xét xử xác định nơi cư trú cuối cùng của anh T trước khi
xuất cảnh ở thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang đã tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án cho anh T thông qua người thân
của anh T là ông Nguyễn Văn S (bố anh T) và đề nghị ông T3 thông báo cho
anh T biết việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đang thụ lý, giải quyết vụ án
“Ly hôn, tranh chấp nuôi con” giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị G và bị đơn
anh Nguyễn Thanh T. Ông S cho biết anh T vẫn thường xuyên liên lạc về gia
đình, nhưng anh T không cung cấp cho gia đình, Tòa án địa chỉ cụ thể của anh T
tại nước ngoài. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là trường hợp bị đơn cố
tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Vì
vậy, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cần tống đạt cho bị đơn
và xử vắng mặt bị đơn theo theo Điều 10 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày
16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và khoản 2 Điều
227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị G và anh Nguyễn Thanh T kết
hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 25/10/2016 tại
Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Đây là hôn nhân hợp pháp
được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng chị G, anh T phát sinh
5
mâu thuẫn, chị G xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án xử
cho chị được ly hôn anh Nguyễn Thanh T.
Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị G đối với anh
Nguyễn Thanh T. Hội đồng xét xử thấy: Sau khi kết hôn chị G và anh T chung
sống với nhau hạnh phúc đến năm 2018 anh T đi lao động tại Hàn Quốc, chị G ở
nhà nuôi con đến năm 2020 chị G đi lao động tại Hàn Quốc. Trong thời gian vợ
chồng chị G, anh T lao động tại Hàn Quốc thì mâu thuẫn vợ chồng ngày càng
trở nên trầm trọng khiến cho vợ chồng chị G, anh T không thể tiếp tục chung
sống với nhau được nữa. Chị G và anh T nhiều lần nói chuyện để hàn gắn tình
cảm nhưng không đạt kết quả. Ngoài ra, ông S là bố anh T cung cấp cho Tòa án
về quan hệ hôn nhân giữa chị G và anh T, mâu thuẫn ông không nắm được
nhưng anh T có gọi điện về thông báo cho gia đình biết vợ chồng anh mâu thuẫn
từ năm 2022, anh T đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không đạt kết
quả. Do đó, Hội đồng xét xử xác định vợ chồng chị G, anh T không còn yêu
thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
được. Nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 51, Điều 53, Điều 56 Luật
Hôn nhân và Gia đình. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị G đối với anh T,
xử cho chị Nguyễn Thị G được ly hôn anh Nguyễn Thanh T như đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ.
[4]. Về nuôi con chung: Chị G và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn
Phương T2, sinh ngày 20/8/2017. Sau khi ly hôn chị G có nguyện vọng giao
cháu T2 và tạm giao cho ông Nguyễn Văn S nuôi dưỡng, chăm sóc trong thời
gian chị G ở nước ngoài.
Xét yêu cầu của chị G, Hội đồng xét xử thấy: Chị G và anh T đều đang sinh
sống và làm việc tại nước ngoài do vậy không thể trực tiếp nuôi dưỡng các con
chung. Tuy nhiên, từ khi chị G, anh T đi lao động ở nước ngoài, cháu T2 được
ông S chăm sóc, nuôi dưỡng, các cháu phát triển bình thường cả về thể chất lẫn
tinh thần. Ông S đề nghị giao cháu T2 cho anh T chăm sóc, nuôi dưỡng, nhưng
tạm giao cháu T2 cho ông nuôi dưỡng trong thời gian anh T ở nước ngoài. Cháu
T2 trên 07 tuổi cũng có nguyện vọng được sống cùng với anh T và ông S nếu
bố, mẹ ly hôn. Vì vậy, căn cứ vào điều kiện thực tế và để đảm bảo quyền, lợi ích
mọi mặt của cháu T2 cũng như nguyện vọng của các con chung. Hội đồng xét
xử căn cứ quy định tại Điều 81, Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình. Không
chấp nhận đề nghị của chị G về việc giao con chung cho chị G nuôi dưỡng mà
cần giao cho anh Nguyễn Thanh T nuôi dưỡng cháu Nguyễn Phương T2 đến khi
con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi theo quy định pháp luật sau
khi ly hôn. Do hiện nay anh T đang ở nước ngoài nên tạm giao cháu T2 cho ông
Nguyễn Văn S nuôi dưỡng cho đến khi anh Nguyễn Thanh T về Việt Nam sinh
sống là phù hợp điều kiện thực tế cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát
tại phiên tòa.
Sau khi ly hôn chị Nguyễn Thị G không trực tiếp nuôi con chung có quyền,
nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở chị G thực hiện quyền
này theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.
6
Trường hợp chị Nguyễn Thị G về nước sinh sống, có nguyện vọng nuôi
con chung hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có quyền
khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác
theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.
[5]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do các đương sự không yêu cầu nên
Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về tài sản, công nợ chung: Chị G, anh T không yêu cầu nên Hội đồng
xét xử không xem xét, giải quyết.
[7]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân
gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000
đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
[8]. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị G, bị đơn anh Nguyễn Thanh T đang ở nước
ngoài vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 01
tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo
quy định tại Điều 271, Điều 273 và khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn
Thị T1 đang ở trong nước vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết theo quy định tại Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81,
Điều 82, Điều 83, Điều 104, khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia
đình; khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều
147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản
2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;
xử:
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị G được ly hôn anh Nguyễn Thanh T.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Phương T2, sinh ngày 20/8/2017
cho anh Nguyễn Thanh T nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi
có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, nhưng tạm giao cháu Nguyễn
Phương T2 cho ông Nguyễn Văn S nuôi dưỡng trong thời gian anh T ở nước
ngoài.
Sau khi ly hôn chị G không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở chị G thực hiện quyền này.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị G phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) án phí sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001313 ngày 19/6/2024 của
7
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị Nguyễn Thị G đã nộp đủ
án phí sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo bản án:
Chị Nguyễn Thị G, anh Nguyễn Thanh T có quyền kháng cáo trong thời
hạn 01 tháng, kể từ nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị T1 có quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày, kể từ nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
-VKSND tỉnh Bắc Giang;
-Cục THADS tỉnh Bắc Giang;
-UBND xã Thanh Lâm, huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang;
-Cổng thông tin điện tử TAND;
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ vụ án;
-Lưu Tổ HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hà Văn Nâu
Tải về
Bản án số 290/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 290/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm