Bản án số 29/2024/HS-ST ngày 23/04/2024 của TAND huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 29/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 29/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 29/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 29/2024/HS-ST ngày 23/04/2024 của TAND huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam |
|---|---|
| Tội danh: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Lục (TAND tỉnh Hà Nam) |
| Số hiệu: | 29/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 23/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Trần Văn L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÌNH LỤC
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 29/2024/HS-ST
Ngày 23-4-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Hằng.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Ngọc Sơn và ông Phạm Văn Thắm.
- Thư ký phiên toà: Bà Đinh Như Nguyệt - Thư ký Toà án nhân dân huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam tham
gia phiên toà: Ông Nguyễn Văn Tấn - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2024/TLST-HS
ngày 05 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
27/2024/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2024 đối với:
- Bị cáo: Trần Văn L, sinh năm 1989 tại xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; nơi cư
trú: thôn Ph, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn
hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Trần Văn L1 và bà Trần Thị Ng; có vợ là Quách Thị Kim A và 01
con; tiền án, tiền sự: không; đặc điểm nhân thân: Ngày 23/02/2011, Tòa án nhân dân
quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/01/2024, chuyển tạm giam từ ngày 27/01/2024
đến nay; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lê Gia T, sinh năm
1992; địa chỉ: thôn M, xã Tr, huyện B, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
2
Khoảng 17 giờ ngày 18/01/2024, tại đoạn đường bê tông thuộc thôn M, xã
Tr, huyện B, tổ công tác Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam phối hợp cùng
Công an xã Tr, huyện B tuần tra phát hiện Trần Văn L đang có hành vi bán trái
phép 01 gói ma tuý cho Lê Gia T với giá 200.000 đồng, L đã nhận của T số tiền
188.000 đồng (T nợ lại số tiền 12.000 đồng) và chưa kịp giao gói ma túy cho T
thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Lúc này, L thả gói ma túy xuống đường
ngay cạnh chỗ đứng nhưng Lực lượng Công an đã kịp thời phát hiện, thu giữ.
Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:
- Thu giữ tại nền đường ngay cạnh chỗ Trần Văn L đang đứng 01 gói được
gói ngoài bằng giấy bạc mặt bên ngoài màu trắng, mặt bên trong màu vàng, bên
trong chứa chất bột màu trắng dạng cục (nghi là ma tuý loại Heroine), được niêm
phong trong phong bì kí hiệu QT01;
- Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải Trần Văn L đang mặc số tiền
188.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 50.000
đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 03 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ
tiền mệnh giá 2.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng, được niêm phong
trong phong bì kí hiệu QT02.
Quá trình điều tra, Trần Văn L khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày
18/01/2024, L đi bộ từ nhà ở thôn Ph, xã A, huyện B để đến khu vực phường Th,
thành phố Ph, tỉnh Hà Nam tìm mua ma tuý loại Heroine về bán kiếm lời. Khi L
đi bộ được một đoạn thì gặp một người nam thanh niên không quen biết đang đi
xe máy một mình thì L xin đi nhờ người này lên khu vực phường Th thì người
này đồng ý. Khi đến nơi, L xuống xe còn người nam thanh niên đi đâu lý không
rõ. L tiếp tục đi bộ một đoạn thì L gặp một người đàn ông không quen biết đang
đứng một mình dáng giống người nghiện ma túy nên L lại gần và hỏi: “Anh ơi,
có Heroine không để cho em hai trăm nghìn”, người đàn ông trả lời: “Có đưa
tiền đây” thì L đưa cho người đàn ông 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và nhận
lại 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc mặt bên ngoài màu trắng, mặt bên trong
màu vàng. Biết đây là gói Heroine cần mua nên L bỏ vào trong túi quần phía
trước bên phải đang mặc rồi xin đi nhờ xe của một người nam thanh niên không
quen biết để về địa bàn huyện B. Khi về đến huyện B thì L xuống xe rồi đi bộ
một mình đến khu vực nghĩa trang (L không biết địa chỉ cụ thể thuộc thôn, xã
nào) thì L đi vào rồi mở gói ma túy vừa mua được rồi dùng xi lanh và ống nước
cất đã chuẩn bị từ trước ra cho một ít ma túy bỏ vào trong xi lanh và cho ống
nước cất đổ vào lắc đều lên để sử dụng bằng hình thức chích vào cơ thể. Sau khi
sử dụng xong thì L vứt xi lanh và ống nước cất đi (L không nhớ vị trí cụ thể), số
Heroine còn lại thì L gói lại và cầm ở trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ ra đường
và tiếp tục xin đi nhờ xe của 01 người thanh niên không quen biết khác để đến
thôn M, xã Tr, huyện B. Khi đến địa phận thôn M, xã Tr thì L xuống xe, còn
3
người nam thanh niên đi đâu L không biết. L đi bộ một đoạn thì gặp Lê Gia T (là
bạn quen từ trước), T hỏi: “Có hàng không để cho một cái hai trăm, ở đây tao có
188.000 đồng còn nợ số còn lại khi nào có thì tao gửi nốt” (ý T muốn hỏi L có
ma tuý loại Heroine để bán không, có thì bán cho T 01 gói ma tuý với giá
200.000 đồng và T đưa trước 188.000 đồng và nợ lại 12.000 đồng) thì L đồng ý.
Thấy vậy, T đưa cho L số tiền 188.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000
đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng, 02 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, 03 tờ
tiền mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá
1.000 đồng, L cầm số tiền trên bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang
mặc và đưa gói Heroine đang cầm trong lòng bàn tay trái ra cho T nhưng chưa
kịp giao thì bị Lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. Lúc này, do sợ hãi nên
L đã thả gói Heroine trên xuống đường ngay cạnh chỗ L đứng thì bị Lực lượng
Công an phát hiện thu giữ.
Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn L tại thôn Ph, xã A, huyện B, tỉnh
Hà Nam nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến vụ án.
Tại bản Kết luận giám định số 104/KL-KTHS ngày 24/01/2024 của Phòng
Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục
trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,052g
(không phẩy không trăm năm mươi hai gam, loại Heroine (Heroin)”.
Cáo trạng số 33/CT-VKS-MT ngày 04/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà
Nam giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo
Trần Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều
251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo
Trần Văn L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung
đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106
Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 188.000 đồng; tịch
thu tiêu hủy vật chứng hoàn trả sau giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình, lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị
cáo rất hối hận, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
4
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia
tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định đó.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn L đã khai báo thành khẩn,
ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp
với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị
tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 18/01/2024, tại đoạn đường bê
tông thuộc thôn M, xã Tr, huyện B, tỉnh Hà Nam; Trần Văn L đang bán trái
phép 0,052 gam Heroine cho Lê Gia T với giá 200.000 đồng (L đã nhận của T
số tiền 188.000 đồng, và cho nợ lại 12.000 đồng) nhưng chưa kịp đưa Heroine
cho T thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy
hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà
nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa
phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.
Do vậy, hành vi của Trần Văn L đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng
pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo thấy:
Về nhân thân: Mặc dù bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng có đặc
điểm nhân thân xấu, đã bị Tòa án xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trần
Văn L khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bản
thân bị cáo có thời gian tham gia và hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Vì vậy bị cáo
được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51
Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh
giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
5
sự và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất,
mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã
hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
- Hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam thấy bị cáo không có tài sản riêng
gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 188.000 đồng đã thu giữ là tiền L có được do bán ma túy
mà có nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với số ma túy Heroine hoàn trả sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu
hành cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:
- Về nguồn gốc số Heroine đã thu giữ: Quá trình điều tra, Trần Văn L khai
số Heroine L có cất giữ để bán cho T là do L mua của một người đàn ông không
quen biết ở khu vực phường Th, thành phố Ph, tỉnh Hà Nam vào ngày
18/01/2024; L không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này. Ngoài lời
khai của L thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để
điều tra làm rõ.
- Đối với ba người thanh niên đã cho Trần Văn L đi nhờ xe máy ngày
18/01/2024, L khai không quen biết và không biết tên, tuổi, địa chỉ, không để ý
đặc điểm xe máy, biển kiểm soát của những người này; L chỉ gặp họ trên đường
và xin đi nhờ xe máy. Ngoài lời khai của L thì không còn tài liệu, chứng cứ nào
khác nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.
- Đối với Lê Gia T: Quá trình điều tra xác định, ngày 18/01/2024, T đưa
cho Trần Văn L số tiền 188.000 đồng (nợ lại 12.000 đồng) để mua 01 gói ma túy
loại Heroine của L nhưng L chưa đưa Heroine cho T thì đã bị lực lượng Công an
bắt quả tang, khối lượng ma tuý loại Heroine thu giữ dưới 0,1 gam, bản thân T
chưa có tiền án, tiền sự gì về hành vi liên quan đến ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an huyện Bình Lục không có căn cứ để xử lý đối với T.
- Đối với việc Trần Văn L khai nhận: Ngày 18/01/2024, sau khi mua gói
Heroine xong thì trên đường đi về thì L đã vào khu vực nghĩa trang (L không
biết thuộc khu vực thôn, xã nào của huyện B) rồi dùng xi lanh và ống nước cất
đã chuẩn bị từ trước cho một ít Heroine vừa mua được bỏ vào rồi chích vào cơ
thể sử dụng, sau đó L đã vứt xi lanh và ống nước cất đi không nhớ vị trí cụ thể.
Ngoài lời khai của Trần Văn L thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên
không có căn cứ để truy tìm, thu giữ, xử lý.
[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

6
[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về hình sự: Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51,
Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng
hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trần Văn L 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày 18/01/2024.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 188.000đ
(Một trăm tám mươi tám nghìn đồng). Tịch thu tiêu hủy số Heroine hoàn trả sau
giám định trong 01 phong bì niêm phong, có số 104/KTHS.
(Tình trạng vật chứng được xác định theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày
05/4/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục và Chi cục Thi
hành án dân sự huyện B, tỉnh Hà Nam cùng Ủy nhiệm chi ngày 05/4/2024 của Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm
nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng
mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện Bình Lục;
- Công an huyện Bình Lục;
- Nhà tạm giữ Công an huyện B;
- Chi Cục THA dân sự huyện B;
- Bị cáo;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Nguyễn Thị Thu Hằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm