Bản án số 25/2025/DS-ST ngày 12/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 25/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 25/2025/DS-ST ngày 12/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 11 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 25/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án dân sự sơ thẩm về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Huỳnh Văn Linh với ông Huỳnh Văn Bạo
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CÀNG LONG
TỈNH TRÀ VINH
Bản án số: 25/2025/DS-ST.
Ngày 12-6-2025.
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: bà Lê Thị Trúc Linh.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Thắng.
2. Ông Trương Thanh Nhàn.
Thư phiên tòa: Quách Thúy Lam Thư Tòa án nhân dân huyện Càng
Long, tỉnh Trà Vinh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long tham gia phiên tòa: ông
Phạm Văn Tính-Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở a án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà
Vinh xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 103/2024/TLST-DS, ngày 22 tháng 01
năm 2024 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 65/2025/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2025 giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: ông Huỳnh Văn L, sinh năm 1977 (vắng mặt).
Địa chỉ: Khóm A, phường A, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện hợp pháp cho nguyên đơn: ông Nguyễn Văn Út E, sinh năm 1981.
Địa chỉ: ấp C, A, huyện C, tỉnh Trà Vinh theo giấy ủy quyền ngày 21/11/2023 (có
mặt).
Bị đơn: 1/. ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1981 (có mặt).
Địa chỉ: ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
2/. Bà Lê Thị N, sinh năm 1982 (có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: ấp E, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Huỳnh Văn D, sinh năm 1975.
Địa chỉ: ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh (có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Văn Út E
người đại diện theo ủy quyền cho ông Huỳnh Văn L nguyên đơn trình bày: Tháng
11/2019 ông nhận chuyển nhượng từ ông Huỳnh Văn B vợ Thị N (hiện
ông B và N đã ly hôn) thửa đất số 1563, tờ bản đồ số 7, diện tích 1664m
2
, loại đất
chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp F, A, huyện C với giá 100.000.000 đồng, ông
đã chồng đủ tiền ông B, N cũng đã giao đất cho ông quản tđó. Do ông ông
B là anh em ruột nên tạm thời khi sang bán các bên chỉ làm giấy tay ghi ngày 03/11/2019
các bên cùng chưa lập hợp đồng chuyển nhượng theo quy đnh, hiện thửa đất này
ông cho người anh hai là ông Huỳnh Văn D ở gần đó mượn canh tác. Tờ sang nhượng đất
lập ngày 03/11/2019 do ông L viết, ông L, ông B và bà N cùng ký tên. Qua nhiều lần ông
đề nghị ông B và bà N ký hợp đồng chuyển nhượng để ông thực hiện các thủ tục sang tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông B không đồng ý, riêng N đồng ý. Xét
thấy việc ông B và bà N bán ông mua sự thỏa thuận tự nguyện hoàn toàn hợp pháp,
tiền ông đã trả đủ và giấy tờ ông B cũng đã giao cho ông quản lý từ năm 2019, nhưng nay
ông B không đồng ý hợp đồng chuyển nhượng để ông thực hiện tiếp các thủ tục biến
động, sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cố tình cản trở việc đã thỏa thuận,
không thực hiện nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ich hợp pháp của ông.
Nay ông yêu cầu ông Huỳnh Văn B Thị N tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 03/11/2019 công nhận cho ông
Huỳnh Văn L được tiếp tục quản sửa dụng thửa đất số 1563, tờ bản đồ số 7, diện
tích 1664m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp F, A, huyện C, tỉnh Trà
Vinh.
Theo ông Huỳnh Văn B bị đơn trình y: ông em của ông Huỳnh Văn L, còn
Thị N vợ ông đã được Tòa án giải quyết cho ly hôn vào năm 2019, ông không
đồng ý theo yêu cầu của ông Huỳnh Văn L yêu cầu ông và bà Lê Thị N tiếp tục thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 03/11/2019 và công nhận
cho ông Huỳnh Văn L được tiếp tục quản sử dụng thửa đất số 1563, tờ bản đồ số 7,
diện tích 1664m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà
Vinh. Tờ sang nhượng đất lập ngày 03/11/2019 do ông L viết, ông L, ông N cùng
ký tên. Do tin tưởng ông không có đọc nội dung tờ sang nhượng, thực chất là ông chỉ cầm
đất cho ông L chứ không chuyển nhượng đất cho ông L. Nguyên nhân xãy ra tranh
chấp ông không bán đất cho ông L nên không đồng ý làm thủ tục sang tên cho ông L,
nên ông L làm đơn khởi kiện ông đến Tòa án.
Nay ông yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông
Huỳnh Văn L, yêu cầu ông L trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trả lại thửa đất
số 1563, tờ bản đồ số 7, diệnch 1664m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp F,
A, huyện C, tỉnh Trà Vinh cho ông, ông đồng ý trả lại cho ông L 100.000.000 đồng,
ngoài ra ông không còn yêu cầu khác. Ông chỉ trình bày ý kiến, ông không làm đơn
khởi kiện.
Tại bản tự khai bà Lê Thị N trình bày: Bà là vợ của ông Huỳnh Văn B đã được Tòa
án giải quyết ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các
đương sự số: 274/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 25/12/2019, vào ngày 03/11/2019 ông
3
B có ký tên vào tờ sang nhượng 1,5 công đất ruộng cho ông Huỳnh Văn L là anh ruột ông
B với giá 100.000.000 đồng đúng sự thật, nay ông B đã ly hôn, bản thân
không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ kiện này.
Tại bản tự khai ông Huỳnh Văn D trình bày: ông anh của ông Huỳnh Văn L
ông Huỳnh Văn B, việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
L với ông B thì ông không ý kiến, ông chỉ cánh tác trồng lác nhờ trên thửa đất tranh
chấp, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, đất giao cho người nào nếu lấy
lại thì ông sẽ trả, ngoài ra ông không có yêu cầu gì.
Tại phiên tòa hôm nay bà Lê Thị N là bị đơn, ông Huỳnh Văn D là người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ
nguyên ý kiến, các bên không bổ sung, cung cấp chứng cứ gì mới tại phiên tòa.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long trình bày quan điểm cho
rằng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi Tòa án thụ đến thời điểm này Thẩm
phán đã chấp hành đúng theo Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự, đảm bảo vthẩm quyền,
quan hệ tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời gian
ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi hồ cho Viện kiểm sát, cấp tống đạt
đầy đủ các văn bản tố tụng, đã thực hiện đầy đủ đúng theo quy định Bộ luật tố tụng
dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thực hiện đầy đđúng theo trình tự
pháp luật quy định của phiên tòa sơ thẩm.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình
giải quyết vụ án, kể từ khi thụ cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ
khi thụ vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên phía bị đơn và người quyền lợi nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện
nghiêm quyền nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân
sự cụ thkhông mặt trong các phiên họp công khai chứng cứ hòa giải do Tòa án
triệu tập.
Về nội dung vụ kiện, V đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 117, 129, 501,
503 Bộ luật dân sự năm 2015.
Áp dụng Điều 26, 35, 91, 147, 157, 165, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng Điều 97, 202 Luật đất đai năm 2013
Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn L. Công nhận hợp đồng giữa ông
L ông B ngày 03/11/2019 hiệu lực, công nhận cho ông Huỳnh Văn L được tiếp
tục quản lý sửa dụng thửa đất số 1563, tờ bản đồ số 7, diện tích 1664m
2
, loại đất chuyên
trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
4
Vị trí tứ cận được thể hiện tại đồ khu đất kèm Công văn số 366/CNHCL ngày
30/8/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai huyện C.
Các đương sự liên hệ quan thẩm quyền làm thtục cấp giấy theo quy định
của pháp luật.
Để đảm bảo cho việc thi hành án, các bên đương sự nghĩa vụ giữ nguyên hiện
trạng, cấm thay đổi hiện trạng đất dưới bất kỳ hình thức nào khi chưa được sự đồng ý của
cơ quan có thẩm quyền.
Án phí, chi phí khảo sát và định giá: Các bên đương sự phải chịu theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bà Lê Thị N bị đơn, ông Huỳnh
Văn D là người quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt đơn yêu cầu giải quyết
vắng mặt, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục
xét xử.
Về xác định quan hệ tranh chấp: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì
đây vụ án Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Út E người đại diện theo y quyền cho ông L
nguyên đơn yêu cầu ông Huỳnh Văn B Thị N tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 03/11/2019 công nhận cho ông
Huỳnh Văn L được tiếp tục quản sử dụng thửa đất số 1563, tờ bản đồ số 7, diện tích
1664m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Phía ông Huỳnh n B bị đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông ông Huỳnh Văn L, yêu cầu ông L trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trả lại thửa đất số 1563, tờ bản đồ s7, diện tích 1664m
2
, loại đất chuyên
trồng lúa nước, tọa lạc tại p F, A, huyện C, tỉnh Trà Vinh cho ông, ông đồng ý trả lại
cho ông L 100.000.000 đồng, ngoài ra ông không còn yêu cầu gì khác. Ông chỉ trình bày
ý kiến, ông không làm đơn khởi kiện.
Do các bên không thỏa thuận được với nhau từ đó phát sinh tranh chấp.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự thì nghĩa vụ chứng minh nghĩa
vụ của đương sự, ông Út E là người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn ông L, ông B
trách nhiệm chứng minh quá trình chuyển nhượng cầm đất giữa hai bên. Tòa án đã
ra Thông báo yêu cầu cung cấp chứng cứ tống đạt cho ông Út E người đại diện theo ủy
quyền cho nguyên đơn ông L, ông B nhận.
5
ông L cung cấp được tchuyển nhượng đất lập ngày 03/11/2019 nội dung ông B,
N có chuyển nhượng 1,5 công đất ruộng, số tiền bằng 100.000.000 đồng, ông B và
N tên ghi họ tên; Ông đã giao 100.000.000 đồng cho ông B nhận ông nhận
đất sử dụng từ năm 2019 cho đến nay không ai ngăn cản tranh chấp, ông B giao
giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất 1563 cho ông giữ.
ông B cho rằng tờ chuyển nhượng đất lập ngày 03/11/2019 tên nhưng ông
không chuyển nhượng đất cầm cố đất, ông thừa nhận nhận của ông L số tiền
100.000.000 đồng là tiền cầm đất, nên ông cho ông L nhận đất sử dụng từ năm 2019 cho
đến nay bên ông không ngăn cản tranh chấp. Ông cũng không giấy tờ chứng minh
cầm cố đất cho ông L.
N thừa nhận vào ngày 03/11/2019 ông B tên vào tờ sang nhượng
1,5 công đất ruộng cho ông Huỳnh Văn L anh ruột ông B với giá 100.000.000 đồng
đúng sự thật, nay bà và ông B đã ly hôn, bản thân bà không có ý kiến và yêu cầu gì trong
vụ kiện này.
Căn cứ qua thẩm định tài sản tranh chấp ngày 09/8/2024 của Văn phòng Đ Chi
nhánh huyện C thì có sự chứng kiến phía bên ông L bên ông B hai bên đã chỉ đúng
vị tphần đất để Hội đồng thẩm định sau khi thẩm định xong các bên đều đồng ý,
không có ý kiến phản đối gì. Như vậy, thể hiện các bên đã chỉ đúng vị trí đất như kết quả
thẩm định của Văn phòng Đ Chi nhánh huyện C ngày 30/8/2024 thì diện tích theo hiện
trạng 1652,3m
2
, thuộc thửa 1563, tờ bản đồ số 7 do ông Huỳnh Văn B, bà Lê Thị N đứng
tên nhưng bên ông B không có sử dụng, bên ông L quản lý sử dụng từ lúc chuyển nhượng
đất năm 2019 cho đến nay, bên ông B không có ai ngăn cản tranh chấp.
Xét yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn L thấy rằng:
Thửa đất 1563, tờ bản đồ số 7, diện tích trong giấy chứng nhận quyền sdụng đất
là 1664m
2
do ông Huỳnh Văn B, bà Lê Thị N đứng tên có nguồn gốc của ông Huỳnh Văn
B, Thị N nhận chuyển nhượng, đây tình tiết thật được các bên thừa nhận nên
không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại tờ
chuyển nhượng đất lập ngày 03/11/2019 thể hiện ông Huỳnh Văn B Thị N
chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn L 1,5 công đất trồng lúa, ông B nhận đủ số tiền. Qúa
trình giải quyết vụ án ông B thừa nhận ông L đã sử dụng đất từ năm 2019 cho đến nay,
xác minh chính quyền địa phương cho rằng ông L nhận chuyển nhượng của ông B 1,5
công đất ruộng, ông L giao cho ông D canh tác sử dụng đến nay. Ông B thừa nhận
nhận của ông L số tiền 100.000.000 đồng nhưng ông cho rằng đây là tiền cầm cố đất từ
ông L. Xét thấy việc ông L canh tác sử dụng đất từ năm 2019 đến nay không ai tranh
chấp hay ngăn cản, phía ông B cũng giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 1563
cho ông L quản lý, N vợ ông B đã ly hôn cũng thừa nhận chuyển nhượng 1,5
công đất ruộng cho ông L. Mặc hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên vi phạm về
hình thức của giao dịch dân sự nhưng phía ông L đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã sử
dụng đất ổn định từ năm 2019 cho đến nay phía gia đình ông B đều biết nhưng không
ai ngăn cản tranh chấp, căn cứ khoản 1 Điều 129 Bộ luật dân sự quy định giao dịch dân
6
sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định
của pháp luật một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong
giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận
hiệu lực của giao dịch đónghĩ nên công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng
giữa ông L và ông B, bà N là có căn cứ chấp nhận.
Việc ông B cho rằng phần diện tích tranh chấp cầm cố chứ không chuyển
nhượng cho ông L, yêu cầu này không sở chấp nhận bởi theo quy định tại Điều
167 Luật đất đai quy định về các quyền của người sử dụng đất thì chỉ quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử
dụng đất, không quyền cầm cố quyền sử dụng đất, do đó hợp đồng cầm cố như ông B
trình bày là không có hiệu lực pháp luật.
Theo kết quả khảo sát diện tích thửa 1563 là 1652,3m
2
, tờ bản đồ số 7, tọa lạc ấp F,
xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh công nhận cho ông L là phù hợp quy định.
Từ những phân tích trên sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
Huỳnh Văn L, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày
03/11/2019 giữa ông Huỳnh Văn L ông Huỳnh Văn B; Công nhận cho ông Huỳnh
Văn L quyền sử dụng đất diện tích 1652,3m
2
thuộc thửa 1563, tờ bản đồ số 7. Đất tọa lạc
tại ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông L được giữ lại để làm thủ tục tách
thửa sang tên diện tích 1652,3m
2
thuộc thửa đất 1563, tờ bản đồ số 7. Đất tọa lạc tại p F,
xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
[3] Về án phí dân sự thẩm: ông B nghĩa vụ nộp theo quy định của pháp luật,
ông L không phải chịu án phí.
[4] Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Đương sự có nghĩa vụ nộp theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 117, 129, 501, 503 Bộ luật dân sự 2015;
Áp dụng Điều 97, 100, 101, 126, 166, 167, 179, 202, 203 Luật đất đai năm 2013;
Điều 26, 35, 39, 91, 147, 157, 165, 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định vmức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn L.
7
Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay lập ngày
03/11/2019 giữa ông Huỳnh Văn Lông Huỳnh Văn B.
Công nhận cho ông Huỳnh Văn L quyền sử dụng đất diện tích 1652,3m
2
, thuộc
thửa đất 1563, tờ bản đồ số 7. Đất tọa lạc tại ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
(Vị trí đất theo đồ khu đất Kèm Công văn số: 366/CNHCL ngày 30/8/2024 của
Văn Phòng Đ Chi nhánh huyện C).
Khi án có hiệu lực pháp luật các đương sự nghĩa vụ đến cơ quan thẩm quyền
về quản đất đai để chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
theo quy định của pháp luật về đất đai.
Để đảm bảo cho việc Thi hành án, khi án hiệu lực pháp luật, các đương sự
nghĩa vụ giữ nguyên hiện trạng đất huê lợi gắn liền với đất, không được thay đổi hiện
trạng đất hoặc xây cất trồng thêm trong diện tích đất tranh chấp dưới bất kỳ hình thức nào
khi chưa được sự đồng ý của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông L được giữ lại để làm thủ tục
tách thửa sang tên diện tích 1652,3m
2
thuộc thửa đất 1563, tờ bản đồ số 7. Đất tọa lạc tại
ấp F, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
3. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Số tiền 2.683.000 đồng. ông Huỳnh
Văn B nghĩa vụ phải chịu chi phí thẩm định, định giá tài sản. Do Ông L đã tạm ứng
trước lệ phí thẩm định, định giá tài sản số tiền 2.683.000 đồng nên ông L được nhận lại
khi ông B nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Càng Long.
4. Về án phí n sự thẩm: ông Huỳnh Văn B phải chịu 300.000 đồng, ông
Huỳnh Văn L không phải chịu án phí, hoàn trả cho ông L 300.000 đồng tiền tạm ứng án
phí theo biên lai thu tiền số 0002392, ngày 19/01/2024 do Chi cục thi hành án n sự
huyện Càng Long thu.
5. Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính
từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại c Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.).
Nơi nhận:
-TAND tỉnh.
-VKSND huyện, tỉnh.
-CCTHADS huyện.
-Các đương sự.
-Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
8
Lê Thị Trúc Linh
Tải về
Bản án số 25/2025/DS-ST Bản án số 25/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 25/2025/DS-ST Bản án số 25/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất