Bản án số 25/2020/DS-ST ngày 09/06/2021 của TAND TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 25/2020/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 25/2020/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 25/2020/DS-ST ngày 09/06/2021 của TAND TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Buôn Hồ (TAND tỉnh Đắk Lắk) |
Số hiệu: | 25/2020/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/06/2021 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 25/2020/DS-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 09-6-2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 233/2020/TLST -DS ngày 26 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp Hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 33/2021/QĐST- DS ngày 27 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Y L Niê (tên thường gọi: Ama Kh), sinh năm 1976; Địa chỉ: Buôn K, xã Ea D, thị xã B, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.
- Bị đơn: Bà H N Mlô (tên thường gọi: A), sinh năm 1984; Địa chỉ: Buôn Tung K, xã Ea D, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Đình B; (văn bản uỷ quyền ngày 15/4/2021) Địa chỉ: Số 865A Hùng V, phường T, thị xã B, tỉnh Đăk Lăk. Có mặt.
-Người làm chứng ông Y Y Niê (tên thường gọi: A); Địa chỉ: Buôn K, xã Ea D, thị xã B, tỉnh Đăk Lăk. Vắng mặt.
-Người phiên dịch: Ông Y L Mlô; Chuyên viên Phòng Tư pháp thị xã B, tỉnh Đăk Lăk; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà nguyên đơn ông Y L Niê trình bày:
Trước đây tôi có vay tiền của Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh B Bắc Đăk Lăk số tiền 200.000.000 đồng. Đến năm 2018, do cần tiền để đáo hạn Ngân hàng nên tôi có vay của bà Lê Thị M số tiền 210.000.000 đồng. Khi giải ngân số tiền 200.000.000 đồng thì có bà H N Mlô (tên thường gọi là A) đi cùng tôi, lúc đó bà H N Mlô nói đưa số tiền 200.000.000 đồng cho bà H N Mlô bỏ vào cốp xe cho an toàn, rồi tôi về nhà trước. Đến chiều cùng ngày bà H N Mlô đến nhà tôi và nói rằng đã tiêu hết số tiền trên. Bà H N hứa 10 ngày sau sẽ trả số tiền trên cho tôi. Tuy nhiên, hết thời hạn 10 ngày mà bà H N Mlô vẫn không thanh toán số tiền trên cho tôi. Sau đó, bà H N có nhờ anh Y Y Niê viết 01 biên bản vay tiền với nội dung: Bà H N Mlô có vay của tôi (Ama K) số tiền 200.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 24/01/2018. Số tiền trên tôi vay của bà Lê Thị M để đáo hạn Ngân hàng. Tôi vay bà M tổng cộng 210.000.000 đồng, sau khi đáo hạn bà H N lấy của tôi 200.000.000 đồng và tôi đã trả cho bà M 13.150.000 đồng tiền lãi của số tiền vay trên, còn số tiền 200.000.000 đồng bà H N có trách nhiệm trả cho tôi. Bà H N hẹn trả cho tôi vào ngày 11/02/2018, quá thời hạn trên bà H N Mlô vẫn chưa trả cho tôi số tiền trên nên bà H N Mlô hẹn lại vào ngày 07 và 08/8/2018 sẽ trả cho tôi số tiền trên. Tuy nhiên, đến hẹn bà H N Mlô vẫn không trả nợ cho tôi như đã cam kết.
Việc bà H N Mlô lấy của tôi số tiền 200.000.000 đồng đã làm tôi lâm vào cảnh nợ nần, vừa phải trả khoản nợ gốc và lãi cho bà Lê Thị M, vừa phải trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng TMCP Đ.
Nay tôi yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H N Mlô phải có trách nhiệm trả cho tôi tổng số tiền 272.362.400 đồng, trong đó, nợ gốc: 200.000.000 đồng, nợ lãi 72.362.400 đồng (tiền lãi tính từ ngày 24/01/2018 đến ngày 01/9/2020, tính tròn 33 tháng với lãi suất 10.964đ/triệu/tháng).
Tại bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Nguyễn Đình B trình bày:
Bà H N Mlô thừa nhận vào ngày 24/1/2018 bà có mượn của ông Y L Niê số tiền 200.000.000đ; Hai bên thỏa thuận không tính lãi suất đối với khoản tiền nói trên. Thời hạn trả nợ đến ngày 8/8/2018.
Nay ông Y L khởi kiện yêu cầu bà H N phải trả cho ông tổng số tiền 272.362.000 đồng, trong đó: Nợ gốc là 200.000.000đ và lãi suất tính đến ngày khởi kiện là: 72.362.000 đồng.
Ý kiến của bà H N như sau: Về khoản tiền gốc là 200.000.000đ bà đồng ý trả cho ông Y L. Tuy nhiên hiện nay do hoàn cảnh khó khăn không có tiền để trả một lần cho nên bà xin trả dần khoản tiền trên trong vòng 10 năm mỗi năm một ít.
Đối với khoản tiền lãi suất: Vì khi mượn tiền hai bên không thỏa thuận với nhau về việc tính lãi suất. Cho nên bà không đồng ý trả khoản tiền này và đề nghị toà án giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại bản tự khai người làm chứng ông Y Y Niê trình bày: Vào ngày 02/02/2018, ông Y L Niê và bà H N Mlô có nhờ tôi viết giấy tờ là biên bản làm việc với nội dung: Bà H N Mlô có vay tiền của ông Y L Niê với tổng số tiền 200.000.000 đồng, số tiền trên ông Y L Niê vay của bà Mai để đáo hạn số tiền vay của Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh B Bắc Đăk Lăk. Sau khi Ngân hàng giải ngân số tiền 200.000.000 đồng thì bà H N Mlô lấy đi và hứa trả cho ông Y L vào ngày 11/02/2018. Sau khi tôi viết xong biên bản về việc vay tiền bà H N Mlô đã trực tiếp ký tên vào biên bản.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và các quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của nguyên đơn và bị đơn tại phiên toà. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn bà H N Mlô phải trả cho ông Y L Niê nợ gốc: 200.000.000 đồng, và lãi theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà các bên vẫn giữ nguyên yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào lời trình bày của đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Y L Niê về việc yêu cầu bà H N Mlô phải trả số tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy: Vào ngày 24/01/2018, bà H N Mlô vay của ông Y L Niê số tiền gốc 200.000.000 đồng, hẹn đến ngày 11/02/2018 sẽ trả cho ông Y L Niê số nợ trên. Khi vay hai bên có lập văn bản về việc vay tiền, bà H N Mlô có ký xác nhận và sự thừa nhận của cả hai bên. Đến hạn trả nợ nhưng bà H N Mlô không thanh toán nợ cho ông Y L Niê là vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay, nên HĐXX cần buộc bà H N Mlô phải trả cho ông Y L Niê số tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 463, khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Y L Niê về việc yêu cầu bà H N Mlô phải trả số tiền lãi là nợ lãi 72.362.400 đồng (tiền lãi tính từ ngày 24/01/2018 đến ngày 01/9/2020, tính tròn 33 tháng với lãi suất 10.964đ/triệu/tháng), và khai nại của bị đơn đây là khoản vay không có lãi nên không đồng ý trả lãi thì thấy rằng nguồn gốc của số tiền là do ông Y L vay Ngân hàng TMCP Đ, bà H N Mlô nhận và sau đó mới lập văn bản về việc vay tiền không thể hiện việc vay có lãi, thời hạn trả sau 10 ngày (ngày 11/02/2018). Do đó lãi suất vay do các bên thoả thuận có lãi hoặc không có lãi, trường hợp có tranh chấp hoặc không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định không quá 10%/năm và thời hạn tính lãi kể từ ngày nghĩa vụ bị vi phạm ngày 11/02/2018 cụ thể [(200.000.000đồng X 10%/năm X (11/02/2018 - 01/9/2020 = 30 tháng 20 ngày)] = 51.090.666đồng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, nên buộc bà H N Mlô phải trả cho ông Y L Niê.
Tổng cộng cả gốc và lãi bà H N Mlô phải trả cho ông Y L Niê là 251.090.666 đồng .
[3] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên phải chịu án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận (72.362.400 đồng - 51.090.666đồng = 21.271.734 đồng), và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự.
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Y LNiê Buộc bị đơn bà H N Mlô phải trả cho ông Y L Niê tổng số tiền 251.090.666đồng, trong đó, nợ gốc: 200.000.000 đồng, nợ lãi 51.090.666đồng (tiền lãi tính từ ngày 11/02/2018 đến ngày 01/9.2020, là 30 tháng 20 ngày với lãi suất 10%/năm).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí: bà H N M lô phải chịu 12.554.533 đồng án phí dân sự sơ thẩm;
ông Y L Niê phải chịu 1.063.586 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ số tiền 6.809.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số AA/2019/0015629 ngày 26/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, ông Y L Niê còn nhận lại 5.745.414đồng tiền chênh lệch.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!