Bản án số 249/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 249/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 249/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 249/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 249/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 249/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn Phạm Văn C, Ngô Duy Đ và bị đơn Sơn S tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 249/2024/DS-PT
Ngày: 27/9/2024
V/v Tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Vũ;
Các Thẩm phán: Ông Hồ Văn Phụng;
Ông Nguyễn Văn Toàn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Sơn Cươl - Kiểm sát viên.
Trong ngày 27/9/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 152/2024/TLPT-DS ngày
07/8/2024 về việc “Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 20/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 201/2024/QĐ-PT ngày
15/8/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Phạm Văn C; Sinh năm: 1970; Địa chỉ cư trú: Số H, ấp P, xã P,
huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)
2. Ông Ngô Duy Đ; Sinh năm: 1970; Địa chỉ cư trú: Số A, ấp B, xã V,
huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn Phạm Văn C, Ngô Duy Đ: Ông
Hoàng Văn Q; Sinh năm: 1962; Địa chỉ cư trú: Số B, đường L, Khóm A,
Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; là người đại diện theo ủy quyền, theo
Giấy ủy quyền lập ngày 01/12/2022. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Sơn S; Sinh năm: 1960. (đã chết)
- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn Sơn S, đồng thời là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Ông Sơn Minh T; Sinh năm: 1992; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
2. Ông Sơn Thanh B; Sinh năm: 1989; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
3. Ông Sơn Thanh T1; Sinh năm: 1996; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
4. Ông Sơn Thanh T2; Sinh năm: 1994; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
5. Bà Sơn Thị Hồng S1; Sinh năm: 1987; Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T,
huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông
Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2: Ông Trần Văn Q1; Sinh năm: 1954; Địa chỉ
cư trú: Ấp K, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; là người đại diện theo ủy quyền,
theo Văn bản ủy quyền lập ngày 15/12/2023. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
6. Ông Hồng L; Sinh năm: 1945; Địa chỉ cư trú: Ấp S, thị trấn H, huyện T,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
7. Bà Thị S2; Sinh năm: 1953; Địa chỉ cư trú: Ấp S, thị trấn H, huyện T,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
8. Ông Hồng Kim S3; Sinh năm: 1952; Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
9. Ông Sơn D; Sinh năm: 1956; Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã T, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
10. Ông Sơn S; Sinh năm: 1958; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện M, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
11. Bà Sơn Thị S4; Sinh năm: 1969; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
12. Ông Sơn D1; Sinh năm: 1972; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
13. Bà Sơn Thị C1; Sinh năm: 1973; Địa chỉ cư trú: Ấp Đ, xã T, huyện M,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan S, S,
Sơn Thị C1: Bà Sơn Thị S4; Sinh năm: 1969; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng; là người đại diện theo ủy quyền, theo Giấy ủy quyền lập
ngày 13/12/2023. (có mặt)
14. Ông Sơn S5; Sinh năm: 1950; Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã V, huyện P,
tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
3
15. Ông Dương Bình T4; Sinh năm: 1970; Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã T,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
16. Bà Dương Thị Chao P; Sinh năm: 1984; Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã T,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
17. Bà Dương Thị Chao P1; Sinh năm: 1980; Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã T,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
18. Bà Dương Thị Si N; Sinh năm: 1975; Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã T,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
19. Bà Dương Thị Si N1; Sinh năm: 1972; Địa chỉ cu trú: Ấp H, xã T,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
20. Bà Dư Thị B1; Sinh năm: 1977; Địa chỉ cư trú: Số H, ấp P, xã P,
huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)
21. Bà Trần Thị L1; Sinh năm: 1980; Địa chỉ cư trú: Số A, ấp B, xã V,
huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)
- Người kháng cáo: Ông Sơn Minh T là người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bị đơn Sơn S, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày như sau:
Vào ngày 18/3/2004, ông Phạm Văn C và ông Ngô Duy Đ nhận chuyển
nhượng của ông Sơn S và bà Danh Thị H Em một phần đất tại thửa số 468 và
thửa đất số 470 có diện tích ngang 20m, dài từ mé lộ tới mé ruộng, có hướng
đông giáp đất ông Ngô Nguyên T5, hướng tây giáp đất ông Sơn S, hướng nam
giáp đất ông Sơn S6, hướng bắc giáp quốc lộ A, phần đất này có nguồn gốc là
của ông Sơn P2 (tên gọi khác S, S) là cha của ông Sơn S cho ông S nhưng chưa
tách bộ sang tên, hiện vẫn do ông P2 đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Khi chuyển nhượng, ông S và bà E đã giao đất cho các nguyên đơn
và hai bên có đo đạc, cặm ranh bằng cột bê tông, diện tích đo đạc là 1.200m
2
,
trong đó phần còn lại của thửa đất số 468 là 328m
2
và một phần của thửa đất số
470 là 872m
2
, tờ bản đồ số 09, toạ lạc ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng
(theo số đo thực tế là 1.591,9m
2
, thửa đất số 470), giá chuyển nhượng là
70.000.000 đồng, trong này có 10.000.000 đồng là khấu trừ vào tiền ông S, bà
E thuê đất của nguyên đơn, việc thanh toán đã thực hiện xong. Phía ông S và bà
E chưa làm thủ tục tách bộ sang tên cho ông C và ông Đ đứng tên phần đất đã
nhận chuyển nhượng.
Hiện nay, ông S và bà E đều đã chết nên ông C và ông Đ yêu cầu Toà án
giải quyết buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S và
bà E phải tiếp tục thực hiện hợp đồng làm thủ tục tách bộ sang tên phần đất mà
ông C và ông Đ đã nhận chuyển nhượng theo quy định. Tại phiên toà sơ thẩm,
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu nếu Toà án không chấp nhận
4
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì nguyên đơn đề nghị Tòa án xử lý hậu quả
của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật.
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp
pháp của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn Sơn S, đồng thời
là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Sơn
Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2 - Ông Trần
Văn Q1 trình bày như sau:
Trước đây, ông Sơn P2 là cha của ông Sơn S có cho ông S và bà E mượn
phần đất trên để sử dụng nhưng ông S và bà E đã chuyển nhượng cho ông Đ và
ông C. Việc chuyển nhượng cụ thể như thế nào thì ông không biết rõ. Nay ông
C và ông Đ yêu cầu Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng cho ông Đ và
ông C đối với phần đất nêu trên thì bị đơn không đồng ý vì đây là đất của ông
Sơn P2 và bà Sơn Thị Đ1 chứ không phải đất của ông Sơn S và bà Danh Thị
Hạnh E1.
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp
pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan S, Sơn D1, Sơn Thị C1, đồng
thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Bà Sơn S4 trình bày như sau:
Cha mẹ của bà Sơn Thị S4 là ông Sơn P2 và bà Sơn Thị Đ1, có tất cả 11
người con gồm: Hồng Lọl, T, Hồng Thị Kim S7 (bà S7 đã chết có chồng là
Dương C2 và 06 người con là Dương Bình T4, Dương Thị Chao P, Dương Thị
Chao P1, Dương Thị Si N1, Dương Thị Si N, Dương Bình T6 (đã chết)), Hồng
Kim S3, S, S (anh), Sơn D, S (em), Sơn Thị S4, S, Sơn Thị C1. Phần đất hiện
nay ông C, ông Đ đang tranh chấp với ông S và bà E1 là đất của cha mẹ của bà
S4 cho ông S mượn sử dụng sau đó ông S chuyển nhượng cho ông C, ông Đ mà
không cho các anh em trong gia đình biết. Hiện nay, cha mẹ bà S4 đều đã chết,
khi ông S chuyển nhượng đất cho ông C, ông Đ thì ông P2 đã chết, bà Đ1 còn
sống nhưng không hay biết việc chuyển nhượng này. Nay bà S4 đại diện cho
các người con của ông S3 Phiên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì đây là tài sản của cha mẹ bà S4 nhưng ông S tự ý chuyển
nhượng cho người khác mà không hỏi ý kiến của các anh em là không đúng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Hồng Lọl, T, Hồng Kim S3, S, S, Dương Bình T4, Dương Thị Chao P, Dương
Thị Chao P1, Dương Thị Si N, Dương Thị Si N1, Dư Thị B1, Trần Thị L1
không có văn bản trình bày ý kiến trong vụ án.
* Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do Tòa án nhân dân huyện
Mỹ Xuyên lập ngày 20/4/2023, phần đất tranh chấp giữa các bên đương sự có
tổng diện tích là 1.591,9m
2
thuộc thửa đất số 470, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp
S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng và trên đất không có tài sản.
* Theo Chứng thư thẩm định giá số Vc 23/07/24/BĐS-ST ngày 11/7/2023
của Công ty Cổ phần T8 thì giá trị quyền sử dụng đất có tranh chấp trong vụ án
là 2.443.567.000 đồng. Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên đã thông báo kết quả
thẩm định giá cho các đương sự trong vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương
5
sự có mặt tại phiên tòa đều thống nhất với kết quả thẩm định giá.
* Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng thụ lý,
giải quyết theo trình tự sơ thẩm.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 20/5/2024 của Tòa
án nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:
* Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 165, khoản 3 Điều 200, khoản 1 Điều 244,
Điều 271, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; khoản 1 Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013; các điều 122, 123,
129, 131 và 500 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều
26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Duy Đ và
ông Phạm Văn C về việc yêu cầu ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 phải tiếp
tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 18/3/2004,
làm thủ tục sang tên cho ông C và ông Đ đối với phần đất có diện tích theo số
đo thực tế là 1.591,9m
2
tại thửa đất số 470, tờ bản đồ số 9, tọa lạc ấp S, xã T,
huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
2. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ngô
Duy Đ và ông Phạm Văn C với ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 được xác
lập ngày 18/3/2004 là vô hiệu.
3. Xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu:
- Buộc ông Ngô Duy Đ và ông Phạm Văn C phải có trách nhiệm hoàn trả
lại cho những người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn gồm ông Sơn Minh
T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, Sơn Thị Hồng
S1 phần đất tranh chấp là một phần của thửa đất số 470, tờ bản đồ số 9, diện
tích theo số đo thực tế là 1.591,9m
2
đất tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc
Trăng có tứ cận như sau:
+ Hướng đông giáp đất ông T7 có số đo 82,23m.
+ Hướng tây giáp đất của ông Sơn S có số đo 78,04m.
+ Hướng nam giáp đất ông Sơn S có số đo 20m.
+ Hướng bắc giáp Quốc lộ A có số đo 20m.
- Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là ông
Sơn Minh T, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, Sơn
Thị Hồng S1 có nghĩa vụ cùng liên đới hoàn trả lại cho ông Ngô Duy Đ và ông
Phạm Văn C số tiền là 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) trong phạm vi di
sản ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để lại.
- Buộc ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn
6
Thanh T2, Sơn Thị Hồng S1 có nghĩa vụ cùng liên đới bồi thường thiệt hại cho
ông Ngô Duy Đ và ông Phạm Văn C số tiền là 1.186.783.500 đồng (một tỷ,
một trăm tám mươi sáu triệu, bảy trăm tám mươi ba ngàn năm trăm đồng) trong
phạm vi di sản ông S và bà E1 để lại.
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án
phí, chi phí tố tụng khác và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
* Đến ngày 04/6/2024, ông Sơn Minh T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm xem xét lại một phần bản án sơ thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm
ở phần xác định số tiền khi xử lý Hợp đồng đặt cọc mua bán trái pháp luật. Xác
định lại số tiền 60.000.000 đồng mà ông C và ông Đ đã giao cho cha và mẹ ông
T từ năm 2004 đến năm 2007 là tiền đặt cọc để mua đất chứ không phải là tiền
trả cho Hợp đồng mua bán đất. Từ đó, xử lý số tiền này theo quan hệ pháp luật
đặt cọc mua đất, chứ không thể xác định số tiền này là tiền trả theo Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bởi vì trong vụ việc này hoàn toàn không có
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên.
* Tại Công văn số 1006/TAT ngày 17/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng về việc đề nghị Công ty Cổ phần T8 xác định giá trị tài sản tranh
chấp trong vụ án. Tại Công văn số 69/CV.SIVC.ST-2024 của Công ty Cổ phần
T8-Chi nhánh S8 xác định Chứng thư thẩm định giá số Vc 23/07/24/BĐS-ST
ngày 11/7/2023 không thay đổi so với thời điểm tháng 9/2024.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; Ông Sơn Minh T là người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn Sơn S, đồng thời là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án giữ nguyên nội dung kháng cáo; các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng như sau:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự; các
đương sự có mặt tại phiên tòa thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự; các đương sự vắng mặt tại phiên tòa và không có đơn
yêu cầu xét xử vắng mặt hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng là
chưa thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
+ Về việc giải quyết vụ án: Mặc dù Giấy biên nhận lập ngày 18/3/2004
phần đầu có ghi là đặt cọc tiền chuyển nhượng đất thổ cư nhưng trong nội dung
ghi rất nhiều lần nguyên đơn và bị đơn giao nhận tiền chuyển nhượng đất với
nhau tổng cộng 60.000.000 đồng, vì vậy cần xem đây là số tiền trả tiền nhận
chuyển nhượng đất cho bị đơn chứ không phải là tiền đặt cọc. Xét thấy nguồn
gốc phần đất mà các bên đang tranh chấp là của ông Sơn P2 và bà Sơn Thị Đ1,
do Ủy ban nhân dân huyện M cấp cho hộ ông Sơn P2 đứng tên trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, khi ông S chuyển nhượng cho ông Đ và ông C
không có ý kiến của ông P2 và bà Đ1. Việc ông S và bà E1 đã tự ý chuyển
nhượng cho ông C và ông Đ là không đúng quy định của pháp luật. Vì vậy cần
7
tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông C, ông Đ và
ông S, bà E1 là vô hiệu và xử lý hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu theo quy
định. Theo Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc những người kế thừa
quyền và nghĩa vụ của bị đơn phải liên đới hoàn trả cho ông C và ông Đ số tiền
là 60.000.000 đồng. Phía ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 cũng có lỗi do
phần đất không phải đất thuộc quyền sử dụng của mình nhưng vẫn chuyễn
nhượng cho ông C và ông Đ là không đúng, còn phía ông C và ông Đ khi nhận
chuyển nhượng không tìm hiểu kỹ về nguồn gốc đất có phải của ông S và bà E1
hay không mà vẫn nhận chuyễn nhượng cũng là có lỗi. Vì vậy, cần xác định lỗi
của các bên ngang nhau là 50/50. Do đó, những người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng của bị đơn phải có trách nhiệm cùng liên đới bồi thường tiền chênh
lệch giá trị quyền sử dụng đất cho ông C và ông Đ số tiền là 1.186.783.500
đồng trong phạm vi di sản ông S và bà E1 để lại. Từ những phân tích trên, đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn. Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm theo hướng ông Đ và ông C
mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000
đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra các
chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xem xét ý kiến đề nghị
của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm,
ông Phạm Văn C, ông Ngô Duy Đ, ông Sơn Thanh B, Sơn Thanh T1, Sơn
Thanh T2, S, S, Sơn Thị C1 vắng mặt nhưng có người đại diện hợp pháp có
mặt tại phiên tòa; ông Sơn S5 vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt; bà Sơn Thị Hồng S1, ông Hồng L, bà Thị S2, ông Hồng Kim S3,
ông Sơn D, ông Dương Bình T4, bà Dương Thị Chao P, bà Dương Thị Chao
P1, bà Dương Thị Si N, bà Dương Thị Si N1, bà Dư Thị B1, bà Trần Thị L1
vắng mặt lần thứ hai không có lý do khi đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn
cứ vào khoản 2, khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội
đồng xét xử phúc thẩm thống nhất quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo và phạm vi xét xử phúc thẩm: Xét
Đơn kháng cáo do ông Sơn Minh T là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của bị đơn Sơn S, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án lập và nộp trực tiếp cho Tòa án cấp sơ thẩm cùng ngày 04/6/2024 là hợp lệ,
đúng quy định về người kháng cáo, thời hạn kháng cáo, hình thức, nội dung
kháng cáo theo quy định tại các điều 271, 272, 273 và 276 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét nội dung kháng
cáo của ông Sơn Minh T3 theo trình tự phúc thẩm.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự đều thừa nhận
phần đất tranh chấp trong vụ án này có diện tích là 1.591,9m
2
, thuộc thửa đất số
470, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (thửa đất
8
có 382,5m
2
thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình Quốc lộ A) có nguồn gốc
là của vợ chồng ông Sơn P2, bà Sơn Thị Đ1 được Ủy ban nhân dân huyện M,
tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Sơn P2
đứng tên vào ngày 16/8/2000. Đồng thời, các bên đương sự cũng thừa nhận
phía nguyên đơn đã giao cho ông Sơn S, bà Danh Thị Hạnh E1 số tiền
60.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xác định các tình tiết, sự kiện này là có thật,
nên căn cứ quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các bên
đương sự không phải chứng minh.
[4] Xét kháng cáo của ông Sơn Minh T3 là người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng của bị đơn Sơn S, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án, về việc yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xác định lại số tiền
60.000.000 đồng mà ông C và ông Đ đã giao cho ông S, bà E1 từ năm 2004
đến năm 2007 là tiền đặt cọc để mua đất chứ không phải là tiền trả cho Hợp
đồng mua bán đất. Từ đó, xử lý số tiền này theo quan hệ pháp luật đặt cọc mua
đất, chứ không thể xác định số tiền này là tiền trả theo Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Ngô
Duy Đ, Phạm Văn C xác định vào ngày 18/3/2004, giữa ông Đ, ông C với vợ
chồng ông Sơn S, bà Danh thị Hạnh E2 có thỏa thuận chuyển nhượng một phần
đất tại thửa số 468 và thửa 470 có diện tích ngang 20m, dài từ mé lộ tới mé
ruộng, giá thỏa thuận chuyển nhượng là 70.000.000 đồng, sau khi chuyển
nhượng ông S, bà E2 đã giao đất cho các nguyên đơn và hai bên có đo đạc, cặm
ranh bằng cột bê tông, việc thanh toán đã thực hiện xong. Tuy nhiên, phía
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn xác định ông Sơn P2 chỉ
cho ông S, bà E2 mượn phần đất trên để sử dụng, do đó việc ông S, bà E2
chuyển nhượng phần đất cho ông Đ và ông C là trái pháp luật, đồng thời Giấy
biên nhận về việc đặt cọc chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 18/3/2004 giữa
ông Đ, ông C với vợ chồng ông S, bà E2 chỉ là thỏa thuận đặt cọc để mua phần
đất của ông S, bà E2 trong tương lai. Xét Giấy biên nhận về việc đặt cọc
chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 18/3/2004 (bút lục 290), mặc dù ghi là
“Giấy biên nhận về việc đặt cọc chuyển nhượng đất thổ cư” nhưng hai bên có
thỏa thuận nội dung giá chuyển nhượng là 70.000.000 đồng và thỏa thuận thời
hạn thanh toán, cụ thể: “Vợ chồng tôi có nhận tiền đặt cọc là 15.000.000đ, số
tiền còn lại là 55.000.000đ. Hẹn đến ngày 10/4/2004 phía anh Đ và anh C phải
chồng thêm 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) để tôi chi phí làm giấy chủ
quyền đất cho anh Đ và anh C. Phần còn lại khi nào giao giấy chủ quyền thì
anh Đ và anh C trả đủ. Các khoản thuế, lệ phí anh Đ, anh C phải thanh toán
đủ theo hóa đơn, chứng từ kèm theo”. Đồng thời ông Đ, ông C tiếp tục thanh
toán cho ông S, bà E2 thêm 04 đợt, cụ thể vào các ngày: Ngày 19/3/2006 thanh
toán số tiền 25.000.000 đồng; ngày 28/5/2006 thanh toán số tiền 5.000.000
đồng; ngày 27/02/2007 thanh toán số tiền 5.000.000 đồng và ngày 01/4/2007
thanh toán số tiền 10.000.000 đồng, tổng cộng ông S và bà E2 đã nhận của ông
C, ông Đ số tiền là 60.000.000 đồng. Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm có
đủ cơ sở xác định vào ngày 18/3/2004 giữa ông Đ, ông C với ông S, bà E2 đã
có thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất tại thửa số
9
468 và thửa 470 có diện tích ngang 20m, dài từ mé lộ tới mé ruộng (diện tích
theo đo đạc thực tế tích là 1.591,9m
2
, thuộc thửa đất số 470, tờ bản đồ số 09,
tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (thửa đất có 382,5m
2
thuộc hành
lang bảo vệ an toàn công trình Quốc lộ A)) và để đảm bảo thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hai bên đã ký kết Giấy biên nhận về việc
đặt cọc chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 18/3/2004 và thỏa thuận nội dung
chuyển số tiền đặt cọc lần đầu 15.000.000 đồng thành tiền thanh toán của hợp
đồng chuyển nhượng ngay khi ký kết Giấy biên nhận về việc đặt cọc chuyển
nhượng đất thổ cư.
[5] Xét tại thời điểm thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Đ,
ông C cũng như ông S, bà E2 đều biết được ông S, bà E2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông Sơn P2 vẫn đang đứng tên trên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định tại khoản 1 Điều 693 của Bộ
luật Dân sự năm 1995 và điểm a khoản 1 Điều 106 của Luật Đất đai năm 2003,
thì một trong các điều kiện để người sử dụng đất thực hiện quyền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó,
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/3/2004 thể hiện bằng
hình thức “Giấy biên nhận về việc đặt cọc chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày
18/3/2004” giữa ông Đ, ông C với ông S, bà E2 đối với phần đất tại thửa số 468
và thửa 470 có diện tích ngang 20m, dài từ mé lộ tới mé ruộng (diện tích theo
đo đạc thực tế tích là 1.591,9m
2
, thuộc thửa đất số 470) là giao dịch dân sự vô
hiệu về cả nội dung và hình thức do vi phạm điều cấm của luật (người chuyển
nhượng quyền sử dụng đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Do đó, Tòa án cấp sơ
thẩm không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
18/3/2004 giữa ông Đ, ông C với ông S, bà E2 là giao dịch dân sự có hiệu lực,
từ đó không buộc người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông S, bà E2
tiếp tục thực hiện hợp đồng là phù hợp với quy định tại các điều 131, 691 của
Bộ luật Dân sự năm 1995 và khoản 1 Điều 127 của Luật Đất đai năm 2003.
[6] Về xử lý hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: Tòa án cấp sơ
thẩm không công nhận hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa nguyên đơn và bị đơn, đồng thời áp dụng Điều 131 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, buộc
nguyên đơn và bị đơn khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận, buộc các nguyên đơn trả lại cho những người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn quản lý phần đất tranh chấp là một phần của
thửa đất số 470, tờ bản đồ số 9, diện tích theo số đo thực tế là 1.591,9m
2
đất tọa
lạc tại ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; buộc những người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn có nghĩa vụ liên đới hoàn trả lại cho nguyên đơn
số tiền là 60.000.000 đồng trong phạm vi di sản ông Sơn S và bà Danh Thị
Hạnh E1 để lại; buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị
đơn có nghĩa vụ cùng liên đới bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn số tiền
10
chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất là 1.186.783.500 đồng trong phạm vi di
sản ông S và bà E1 để lại.
[7] Đối với số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất nguyên đơn đã giao
cho phía ông S, bà E1, những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị
đơn cũng thừa nhận ông S, bà E1 có nhận của nguyên đơn số tiền 60.000.000
đồng, về phía nguyên đơn cho rằng đã trả cho ông S, bà E1 số tiền 70.000.000
đồng trong đó có 10.000.000 đồng là tiền cho ông S thuê đất nhưng nguyên đơn
không cung cấp được chứng cứ, chứng minh về việc này nên cấp sơ thẩm chỉ
buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn có nghĩa vụ
liên đới hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền đã nhận từ nguyên đơn là
60.000.000 đồng trong phạm vi di sản ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để
lại là phù hợp.
[8] Đối với việc xác định lỗi dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu và xác định
thiệt hại: Tại thời điểm thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông S, bà
E1 biết rõ ông bà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà do hộ
ông S3 Phiên đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn phía
nguyên đơn khi nhận chuyển nhượng đất từ ông S, bà E1 vẫn biết nguồn gốc
đất là của ông Sơn P2 cho ông Sơn S (khi cho chỉ cặm trụ ranh chứ không có
làm hợp đồng tặng cho-Bút lục số 316) nhưng vẫn thỏa thuận ký kết hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông S, bà E1. Do đó, cả ông Đ, ông C và
ông S, bà E1 đều có lỗi tương đương nhau đối với hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất vô hiệu nên mỗi bên chịu trách nhiệm 1/2 giá trị thiệt hại
theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự năm 1995; điểm c tiểu mục 2.3
mục 2 Phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình”; điểm a, điểm b tiểu
mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình”.
Theo các quy định trên thì thiệt hại được xác định như sau: Giá chuyển nhượng
02 bên thỏa thuận tại thời điểm ngày 18/3/2004 là 70.000.000 đồng; Giá trị tài
sản tranh chấp theo Chứng thư thẩm định giá số Vc 23/07/24/BĐS-ST ngày
11/7/2023 của Công ty Cổ phần T8 là 2.443.567.000 đồng và Công ty Cổ phần
T8-Chi nhánh S8 xác định giá trị quyền sử dụng đất có tranh chấp trong vụ án
tại thời điểm tháng 9/2024 là không thay đổi so với thời điểm ngày 11/7/2023;
khoản tiền chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với
giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 2.373.567.000 đồng
(2.443.567.000 đồng – 70.000.000 đồng). Do các bên đều có lỗi tương đương
nhau làm cho hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nên mỗi bên
chịu trách nhiệm 1/2 giá trị thiệt hại là 1.186.783.500 đồng (2.373.567.000
đồng/2). Từ đó, cấp sơ thẩm xử buộc ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông
Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị Hồng S1 là những người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và là người thừa kế của bà Danh Thị
Hạnh E1 có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn số tiền
11
chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất là 1.186.783.500 đồng trong phạm vi di
sản ông S và bà E1 để lại là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[9] Tuy nhiên, thời điểm phát sinh giao dịch dân sự giữa nguyên đơn và bị
đơn là năm 2004, thời điểm này Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Đất đai năm
2003 đang có hiệu lực thi hành nhưng cấp sơ thẩm lại áp dụng các quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2013 để giải quyết vụ án là
không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 156 của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể: “Văn bản quy phạm pháp luật được áp
dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực.
Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về
trước thì áp dụng theo quy định đó”. Tuy nhiên, nội dung quy định của Bộ luật
Dân sự năm 1995, Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật
Đất đai năm 2013 liên quan về giao dịch dân sự vô hiệu và xử lý hậu quả pháp
lý giao dịch dân sự vô hiệu, cụ thể áp dụng trong vụ án này là không có thay
đổi. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm điều chỉnh lại pháp luật áp dụng cho
phù hợp.
[10] Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm,
nguyên đơn không cung cấp được thông tin về di sản của ông Sơn S và bà
Danh Thị Hạnh E1 để lại. Tòa án cấp phúc thẩm đã tiến hành thu thập chứng cứ
về thông tin di sản của ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để lại nhưng cũng
không xác định được di sản của ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để lại. Do
đó, việc thu thập thông tin về di sản của ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để
lại sẽ được tiếp tục thực hiện trong giai đoạn thi hành án theo quy định của
pháp luật.
[11] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147, khoản 1
Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 26, khoản 3
Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đối với nguyên đơn Ngô Duy Đ và Phạm Văn C,
do yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng không được Tòa án chấp nhận nên mỗi
người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng.
Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ buộc ông Đ, ông C cùng chịu án phí dân sự sơ
thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng là không phù hợp quy định của pháp
luật. Trong vụ án này, do không có đương sự yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nên những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và là người thừa kế của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm
ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2,
bà Sơn Thị Hồng S1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[12] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí thẩm định giá tài sản
tranh chấp: Căn cứ vào khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II của Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự,
12
hôn nhân và gia đình; điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số
01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh
chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, nguyên đơn ông Ngô Duy Đ, ông Phạm Văn
C không được Tòa án chấp nhận yêu cầu nên phải chịu chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ là 8.000.000 đồng. Về chi phí định giá tài sản tranh chấp là
10.700.000 đồng, nguyên đơn ông Ngô Duy Đ, ông Phạm Văn C và những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và là người thừa kế của bà
Danh Thị Hạnh E1 gồm ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh
T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị Hồng S1, mỗi bên chịu chi phí thẩm định
giá tài sản tương ứng với phần nghĩa vụ của mỗi bên là 5.350.000 đồng
(10.700.000 đồng/2). Do ông Đ và ông C đã nộp tạm ứng số tiền này nên
những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn và là người thừa kế
của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn
Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị Hồng S1 có nghĩa vụ thanh toán cho
ông Đ và ông C số tiền là 5.350.000 đồng trong phạm vi di sản của ông S và bà
E1 để lại. Hội đồng xét xử sơ thẩm buộc ông Đ, ông C và những người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn cùng chịu chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ và chi phí thẩm định giá tài sản tranh chấp ngang nhau là không phù hợp
quy định của pháp luật.
[13] Từ những nhận định trên, căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 308 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, không chấp nhận
kháng cáo của ông Sơn Minh T3 là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của bị đơn Sơn S, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án, sửa bản án dân sự sơ thẩm đối với phần quyết định về án phí dân sự sơ
thẩm, chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí thẩm định giá tài sản tranh
chấp.
[14] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 148 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án. Do Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên phần bản án sơ thẩm bị kháng
cáo nên ông Sơn Minh T3 là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị
đơn Sơn S, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án chịu
án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 1, khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6
Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
13
* Không chấp nhận kháng cáo của ông Sơn Minh T3 là người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Sơn S, đồng thời là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
* Sửa phần quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ và chi phí thẩm định giá tài sản tranh chấp của Bản án dân sự sơ
thẩm số 35/2024/DS-ST ngày 20/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh
Sóc Trăng và Quyết định của Bản án sơ thẩm được tuyên lại như sau:
- Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1
Điều 39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 157 của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 106, khoản 1 Điều 127 của
Luật Đất đai năm 2003; Điều 131, Điều 146, Điều 691, khoản 1 Điều 693 của
Bộ luật Dân sự năm 1995; khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
khoản 1 Điều 26, khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 của Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
- Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Duy Đ,
ông Phạm Văn C, về việc yêu cầu Tòa án buộc những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của bị đơn Sơn S gồm Sơn Minh T, Sơn Thanh B, Sơn Thanh
T1, Sơn Thanh T2, Sơn Thị Hồng S1 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích là
1.591,9m
2
thuộc thửa đất số 470, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện
M, tỉnh Sóc Trăng (thửa đất có 382,5m
2
thuộc hành lang bảo vệ an toàn công
trình Quốc lộ A) theo nội dung thỏa thuận của Giấy biên nhận về việc đặt cọc
chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 18/3/2004.
2. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/3/2004
giữa ông Ngô Duy Đ, ông Phạm Văn C với ông Sơn S, bà Danh Thị Hạnh E1
đối với phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích là 1.591,9m
2
thuộc thửa đất số
470, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (theo nội
dung thỏa thuận của Giấy biên nhận về việc đặt cọc chuyển nhượng đất thổ cư
lập ngày 18/3/2004) là giao dịch dân sự vô hiệu. Xử lý hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
- Xử buộc ông Ngô Duy Đ và ông Phạm Văn C có nghĩa vụ giao trả lại
cho những người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn Sơn S và là người thừa
kế của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông
Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị Hồng S1 quản lý đối với phần
đất theo đo đạc thực tế có diện tích là 1.591,9m
2
thuộc thửa đất số 470, tờ bản
đồ số 09, tọa lạc tại ấp S, xã T, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (thửa đất có 382,5m
2
thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình Quốc lộ A), có tứ cận như sau:
+ Hướng Đông giáp đất ông T7 có số đo 82,23m.
+ Hướng Tây giáp đất của ông Sơn S có số đo 78,04m.
14
+ Hướng Nam giáp đất ông Sơn S có số đo 20m.
+ Hướng Bắc giáp Quốc lộ A có số đo 20m.
(kèm theo Bản án này là Sơ đồ hiện trạng thửa đất do Công ty Trách
nhiệm hữu hạn H1 ngày 20/4/2023)
- Xử buộc những người kế thừa và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn Sơn S và là
người thừa kế của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm ông Sơn Minh T3, ông Sơn
Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị Hồng S1 có nghĩa
vụ trả cho ông Ngô Duy Đ và ông Phạm Văn C số tiền 1.246.783.500 đồng
(một tỷ, hai trăm bốn mươi sáu triệu, bảy trăm tám mươi ba ngàn, năm trăm
đồng) trong phạm vi di sản của ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để lại.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn Ngô Duy Đ, Phạm Văn C mỗi người chịu án phí dân sự sơ
thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng
(ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0007365 ngày 17/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sóc
Trăng. Ông Ngô Duy Đ và ông Phạm Văn C, mỗi người phải tiếp tục nộp án
phí dân sự sơ thẩm là 150.000 đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng).
- Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Sơn S và
là người thừa kế của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm ông Sơn Minh T3, ông Sơn
Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị Hồng S1 không
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và chi phí thẩm định giá tài sản
tranh chấp:
- Nguyên đơn ông Ngô Duy Đ, ông Phạm Văn C chịu chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ là 8.000.000 đồng và chi phí thẩm định giá tài sản tranh
chấp là 5.350.000 đồng, tổng cộng là 13.350.000 đồng (mười ba triệu, ba trăm
năm mươi ngàn đồng). Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị
đơn ông Sơn S và là người thừa kế của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm ông Sơn
Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2, bà Sơn Thị
Hồng S1 chịu chi phí thẩm định giá tài sản tranh chấp là 5.350.000 đồng (năm
triệu, ba trăm năm mươi ngàn đồng). Nghĩa vụ của ông Ngô Duy Đ, ông Phạm
Văn C được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng cho Tòa án nhân dân huyện
Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng là 18.700.000 đồng. Những người kế thừa và nghĩa
vụ tố tụng của bị đơn Sơn S và là người thừa kế của bà Danh Thị Hạnh E1 gồm
ông Sơn Minh T3, ông Sơn Thanh B, ông Sơn Thanh T1, ông Sơn Thanh T2,
Sơn Thị Hồng S1 có nghĩa vụ trả cho ông Ngô Duy Đ và ông Phạm Văn C số
tiền là 5.350.000 đồng (năm triệu, ba trăm năm mươi ngàn đồng) trong phạm
vi di sản của ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để lại.
5. Về nghĩa vụ thi hành án dân sự:
15
- Về nghĩa vụ chậm thi hành án dân sự: Khi bản án có hiệu lực pháp luật,
kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Nghĩa vụ chậm thi hành án dân sự được thực hiện trong phạm vi di sản của
ông Sơn S và bà Danh Thị Hạnh E1 để lại.
- Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành
theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9
của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân
sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
* Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Sơn Minh T chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng (ba trăm
ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0005515 ngày 04/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
* Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện M;
- Chi cục THADS huyện M;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VP;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Vũ
Tải về
Bản án số 249/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 249/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm