Bản án số 248/2025/KDTM-PT ngày 15/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về cung ứng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 248/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 248/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 248/2025/KDTM-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 248/2025/KDTM-PT ngày 15/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp về cung ứng dịch vụ |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về cung ứng dịch vụ |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Hồ Chí Minh |
| Số hiệu: | 248/2025/KDTM-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 15/08/2025 |
| Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | sửa bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ H
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 248/2025/KDTM-PT
Ngày: 15/8/2025
V/v tranh chấp hợp đồng gia
công thương mại.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Đào Minh Đa.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Tài;
Ông Nguyễn Trung Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Quốc Nhi – Thư ký Tòa án nhân dân
Thành phố H.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố H tham gia phiên tòa: Bà
Phạm Thị Ngọc Giàu - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H đã xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 34/2024/TLPT-KDTM ngày 07 tháng
10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng gia công thương mại”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 39/2024/KDTM-ST ngày 25
tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố U, tỉnh D (nay là Tòa án nhân
dân kv B – Thành phố H) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3442/2025/QĐXXPT-KDTM ngày
07 tháng 7 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 11287/2025/QĐ-
PT ngày 24 tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần S; địa chỉ: số 39A, tổ 1, đường S, khu phố
L, phường K, thành phố U, tỉnh D (nay là số 39A, tổ 1, đường S, khu phố L,
phường K, Thành phố H).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Đức T, sinh năm 1977;
địa chỉ: số 114, lô 10, cư xá T, Phường B, quận T, Thành phố H (nay là số 114,
lô 10, cư xá T, phường Q, Thành phố H); Văn bản ủy quyền ngày 09/9/2024, có
mặt.
2
- Bị đơn: Công ty TNHH Đ; địa chỉ: thửa đất số 789, tờ bản đồ 38, đường
DT 745, khu phố V, phường B, thành phố U, tỉnh D (nay là thửa đất số 789, tờ
bản đồ 38, đường DT B, khu phố V, phường H, Thành phố H).
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Hồ T - Chức vụ: Giám đốc, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Ngô Văn T1 –
Luật sư Văn phòng Luật sư K thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, có mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn Công ty Cổ phần S và bị đơn Công ty
TNHH Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo Đơn khởi kiện ngày 13/9/2023; đơn sửa chữa, bổ sung đơn khởi
kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn thống nhất trình bày:
Ngày 12/5/2022, Công ty TNHH Đ (gọi tắt là Công ty Đ) và Công ty Cổ
phần S (gọi tắt là Công ty S) ký Hợp đồng gia công số 12052022-SW-DH về gia
công cưa xẻ và sấy gỗ. Theo đó, Công ty S giao gỗ tròn để Công ty Đ cưa xẻ
thành gỗ ván, sấy khô và giao lại cho Công ty S. Ngoài ra, hai bên còn thỏa
thuận về việc Công ty Đ giao cho Công ty S một phần diện tích kho để lưu giữ
số lượng gỗ thành phẩm tại xưởng của Công ty Đ.
Thực hiện hợp đồng, Công ty Đ gia công với số lượng 12.550,0581m
3
gỗ
(được ghi nhận số lượng trong các hóa đơn gia công, biên bản nghiệm thu gỗ
sấy, bảng chi tiết công nợ).
Về tiền thù lao gia công: Công ty S đã thanh toán tiền gia công cho Công ty
Đ với số tiền 10.646.837.729 đồng (Bảng theo dõi công nợ ngày 13/3/2023), còn
nợ số tiền 6.689.872.811 đồng.
Để giải quyết công nợ, đại diện Công ty S đã nhiều lần đến gặp ông
Nguyễn Hồ T - đại diện hợp pháp của Công ty Đ yêu cầu được trả nợ và lấy gỗ
về nhưng ông Nguyễn Hồ T không đồng ý. Cụ thể, ngày 09/3/2023, đại diện
Công ty S đã gọi cho ông Nguyễn Hồ T nhiều lần nhưng không được. Đến ngày
10/3/2023, ông Nguyễn Hồ T liên hệ với đại diện Công ty S để thương lượng
nhưng sau đó không hợp tác.
Ngày 12/3/2023, đại diện Công ty S đến gặp ông Nguyễn Hồ T tại Văn
phòng Công ty Đ, ông Nguyễn Hồ T tuyên bố Công ty S hết quyền tài phán, vì
ông Nguyễn Hồ T đã bán tài sản (gỗ xẻ) của Công ty S theo Biên bản họp được
ký vào ngày 08/02/2023 và Chứng thư thẩm định giá được ký ngày 14/02/2023.
Biên bản họp ngày 08/02/2023 có nêu nội dung: “Bên A (Công ty Đ) tiến hành
thẩm định giá thị trường của số gỗ tồn kho từ cơ quan có thẩm quyền, để có
thông tin về giá thanh khoản lô gỗ tồn kho tại kho Bên A, để có cơ sở thanh lý
hàng hóa nếu phương án bán hàng của Bên B (Công ty S) không thành công”.
Tuy nhiên, theo đúng như thỏa thuận trên Công ty Đ và Công ty S phải cùng
thẩm định sau khi phương án bán hàng để trả nợ chậm nhất vào ngày 10/3/2023
3
không thành công nhưng Công ty Đ đã tự ý thẩm định lô gỗ trước ngày
10/3/2023 khi chưa có sự đồng ý của Công ty S.
Công ty Đ đã không làm đúng thỏa thuận tại Điều 8 của Hợp đồng gia công
số 12052022-SW-DH ngày 12/5/2022 và Điều 3 của Biên bản họp ngày
08/02/2023. Ngày 17/3/2023, Công ty S đã lập vi bằng và tống đạt cho Công ty
Đ với nội dung yêu cầu ông Nguyễn Hồ T dừng ngay việc bán gỗ và trả lại cho
Công ty S toàn bộ số gỗ đang lưu giữ tại kho Công ty Đ. Đến ngày 21/4/2023,
ông Thanh cho Công ty S vào kho của Công ty Đ kiểm đếm lại số gỗ còn lưu trữ
lại là 1.469m
3
(được thể hiện tại Văn bản số 01-12052022/CV/DH-SLW ngày
20/4/2023 của Công ty Đ). Đến ngày 23/6/2023, Công ty S đã nhận lại số lượng
gỗ này là 1.467m
3
(trong tổng khối lượng 1.469m
3
– 2m
3
có hao hụt không đáng
kể); số lượng gỗ còn lại 2.210m
3
thì ông Nguyễn Hồ T thừa nhận tại Công an
tỉnh D (PC03) đã bán với số tiền 6.682.000.000 đồng để cấn trừ số tiền nợ
6.689.872.811 đồng.
Do phía Công ty Đ đã tự ý lấy số lượng gỗ 2.210m
3
của Công ty S để bán
theo giá của chứng thư thẩm định giá không có giá trị pháp lý (vì không có sự
tham gia của Công ty S) nên Công ty S khởi kiện yêu cầu Công ty Đ phải trả lại
số lượng gỗ 2.210m
3
hoặc bồi thường bằng tiền tương đương là 20.924.000.000
đồng. Công ty S sẽ thanh toán số tiền nợ 6.689.872.811 đồng cho Công ty Đ.
- Bị đơn Công ty TNHH Đ và người đại diện hợp pháp của bị đơn thống
nhất trình bày:
Ông Nguyễn Hồ T thừa nhận ký hợp đồng gia công cưa, xẻ, sấy gỗ cho
Công ty S theo đơn giá, số lượng gỗ đã nhận gia công như người đại diện hợp
pháp của Công ty S trình bày; số tiền Công ty S còn nợ chưa thanh toán là
6.689.872.811 đồng. Tuy nhiên, Công ty S là bên vi phạm hợp đồng, không
thanh toán tiền gia công theo đúng thỏa thuận của hợp đồng. Do đó, ngày
08/02/2023 hai bên họp và lập biên bản thống nhất phương án trả nợ như sau:
“Bên A (Công ty Đ) tiến hành thẩm định giá thị trường của số gỗ tồn kho từ cơ
quan có thẩm quyền, để có thông tin về giá thanh khoản lô gỗ tồn kho tại kho
Bên A, để có cơ sở thanh lý hàng hóa nếu phương án bán hàng của Bên B (Công
ty S) không thành công.
Chậm nhất đến ngày 10/3/2023, bên B bán hàng và bên A thu vào tài
khoản bên A ít nhất hai tỷ đồng, chậm nhất đến ngày 31/3/2023, bên B bán hàng
và bên A tiếp tục cập nhật và trao đổi phương án thực hiện trong tháng 4 năm
2025”.
Thực hiện thỏa thuận, Công ty Đ mời Công ty TNHH Kiểm toán và Thẩm
định giá Asia Dragon (ADAC) đồng thời thông báo cho Công ty S tham gia
thẩm định giá vào lúc 09 giờ 00 ngày 14/02/2023 (Công ty Đ gửi qua đường bưu
điện, gửi cho bà L - kế toán kho, ông Đinh Văn H - nhân viên bảo vệ của Công
ty S), thông báo, trao đổi cũng được gửi lên trên nhóm Zalo của Công ty Đ và
Công ty S. Do đó, Chứng thư thẩm định giá ngày 14/02/2023 đảm bảo tính pháp
lý theo thỏa thuận. Công ty S không thực hiện thỏa thuận bán hàng vào ngày
10/3/2023 để trả cho Công ty Đ số tiền 2.000.000.000 đồng, trong khi đó Công
4
ty Đ nợ lương công nhân nhiều (mấy trăm công nhân) nên rất cần nguồn tài
chính để trả lương công nhân.
Do đó, vào ngày 16 và 17/3/2023, Công ty Đ bán số lượng gỗ đã thẩm định
cho ông Thạch Trung K với số tiền 1.582.000.000 đồng (bút lục số 495); bán
cho ông Đặng Trọng S với số tiền 4.000.000.000 đồng (bút lục số 486), bán cho
bà Nguyễn Thị Kim C với số tiền 1.100.000.000 đồng (bút lục số 475); khối
lượng gỗ bán là 2.210m
3
với tổng giá trị 6.682.000.000 đồng; số tiền này Công
ty Đ khấu trừ vào tiền nợ của Công ty S theo đúng Biên bản họp ngày
08/02/2023. Ngày 23/6/2023, Công ty Đ đã bàn giao cho Công ty S số gỗ còn lại
1.467m
3
(thiếu 02m
3
so với biên bản kiểm kê ngày 15/4/2023 là 1.469m
3
do bị
hư mục nên Công ty S không chuyển đi); Công ty S cũng đã chuyển đi ra khỏi
kho của Công ty Đ.
Nay, Công ty S cho rằng số gỗ mà Công ty Đ đã bán để trừ nợ (theo thỏa
thuận tại Biên bản họp ngày 08/02/2023) có giá trị lên tới số tiền 20.924.000.000
đồng và yêu cầu Công ty Đ bồi thường là không có căn cứ; Công ty Đ không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty S.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 39/2024/KDTM-ST ngày 25
tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố U, tỉnh D (nay là Tòa án nhân
dân kv B – Thành phố H) đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần S. Buộc Công ty
TNHH Đ có nghĩa vụ bồi thường cho Công ty Cổ phần S số tiền 6.682.000.000
đồng (sáu tỷ sáu trăm tám mươi hai triệu đồng).
2. Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ phần S về việc thanh toán tiền
gia công cho Công ty TNHH Đ. Công ty Cổ phần S thanh toán tiền gia công cho
Công ty TNHH Đ với số tiền 6.689.872.811 đồng (sáu tỷ sáu trăm tám mươi
chín triệu tám trăm bảy mươi hai nghìn tám trăm mười một đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành
án và tuyên quyền kháng cáo.
Ngày 29/7/2024, Công ty Cổ phần S kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 06/8/2024, Công ty TNHH Đ kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về
nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa với lý do
không định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp, không đưa những người mua
tài sản của nguyên đơn vào tham gia tố tụng bao gồm: ông Thạch Trung Kiên,
ông Đặng Trọng S và bà Nguyễn Thị Kim C. Trường hợp Tòa án vẫn xét xử vụ
án thì đề nghị tạm ngừng phiên tòa để định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp
hoặc hủy bản án sơ thẩm.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn không thừa nhận có Biên bản họp
ngày 08/02/2023, không thừa nhận có ý kiến về việc hai bên đã khấu trừ xong
tiền nợ giữa số gỗ bị đơn bán và số tiền nguyên đơn nợ bị đơn. Số lượng gỗ
5
nguyên đơn giao cho bị đơn gia công là 12.550,0581m
3
và hiện nay cũng không
biết thất thoát ở đâu, nguyên đơn đang nhờ Công an điều tra làm rõ.
Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: bị đơn bán tài sản để
khấu trừ nợ là một phần thỏa thuận của hợp đồng giữa nguyên đơn với bị đơn.
Hàng trăm công nhân phải lao động vất vã để cưa, xẻ, sấy gỗ gia công cho
nguyên đơn nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu lấy gỗ mà không đề cập đến tiền nợ,
tiền lương của công nhân. Bị đơn bán gỗ của nguyên đơn là thực hiện đúng thỏa
thuận ngày 08/02/2023 giữa hai bên để lấy tiền trả lương cho công nhân. Số gỗ
còn lại của nguyên đơn thì nguyên đơn cũng đã lấy vận chuyển ra khỏi kho của
bị đơn, nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường thiệt hại là không đúng. Tuy
nhiên, bản án sơ thẩm buộc bị đơn trả tiền bán tài sản cho nguyên đơn và phải
chịu án phí sơ thẩm trên số tiền trả lại là không đúng.
Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến tranh
luận: Tại đơn khởi kiện; đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn đã thể hiện rõ
ràng hợp đồng gia công giữa hai bên, số lượng gỗ nguyên đơn đã giao, đã nhận,
số tiền nguyên đơn đã trả cho bị đơn,... Nay người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn phủ nhận là mâu thuẫn và không đúng với ý chí, lời khai ban đầu của
nguyên đơn và các chứng cứ (hóa đơn, biên bản,...) có trong hồ sơ vụ án.
Tính đến tháng 02/2023, nguyên đơn còn nợ bị đơn số tiền 6.682.000.000
đồng; hai bên thỏa thuận ký Biên bản họp ngày 08/02/2023, theo đó đến ngày
10/3/2023, nguyên đơn phải bán gỗ để trả cho bị đơn số tiền 2.000.000.000 đồng
nếu quá thời hạn trên mà nguyên đơn không trả nợ thì bị đơn được bán gỗ để
khấu trừ nợ. Do đó, bị đơn bán gỗ để trừ nợ là một phần thỏa thuận trong hợp
đồng, số gỗ còn lại nguyên đơn cũng đã nhận và vận chuyển ra khỏi kho của bị
đơn vào ngày 23/6/2023. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố H tham dự phiên tòa phát
biểu ý kiến như sau:
Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã tuân theo đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa nhưng không
đưa ra được lý do chính đáng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định
của pháp luật.
Yêu cầu định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp của nguyên đơn là có
căn cứ, vì tại phiên tòa, bị đơn khai những người mua gỗ do bị đơn bán chưa
chuyển đi hết, vẫn còn khoảng 10m
3
họ gửi ở kho của bị đơn.
Đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để định giá hoặc thẩm định
giá tài sản. Trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận tạm ngừng phiên tòa
để thẩm định giá thì đại diện Viện Kiểm sát không có ý kiến về phần nội dung.
6
Sau khi nghiên cức các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp về hợp đồng gia công thương
mại” giữa nguyên đơn và bị đơn là 02 doanh nghiệp với nhau; tiêu chuẩn về
trình độ, năng lực của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đã được
quy định rõ tại các Điều 82, 162 của Luật Doanh nghiệp.
Nguyên đơn Công ty S tố cáo bị đơn Công ty Đ có hành vi chiếm đoạt tài
sản của Công ty S tại Công an tỉnh D; tại các bút lục từ số 598 đến 602 thể hiện
Công an tỉnh D xác định vụ việc không có dấu hiệu tội phạm hình sự. Do đó,
Công ty S nộp đơn khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án. Nay, người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn vẫn tiếp tục yêu cầu xem xét dấu hiệu phạm tội hình sự
của bị đơn nhưng không rút yêu cầu khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án là chưa
phù hợp với quy định của pháp luật.
Quá trình tố tụng ở Tòa án cấp sơ thẩm, tại biên bản hòa giải, biên bản
phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Bùi Trần Phương N
và bà Trần Thị Kim H đã được Tòa án giải thích về quyền yêu cầu định giá,
thẩm định giá tài sản tranh chấp để xác định thiệt hại nhưng họ không yêu cầu
định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ
án theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ là đúng quy định của pháp luật.
[1.2] Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn ủy quyền cho ông Võ Đức T tham
gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của nguyên đơn. Sau khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, ngày 08/11/2024, người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn nộp đơn yêu cầu Tòa án chỉ định Công ty Cổ phần Thẩm
định giá T để thẩm định giá tài sản tranh chấp. Ngày 05/12/2024, người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn nộp đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán – Chủ tọa phiên
tòa vì lý do Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án. Ngày
09/12/2024, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa nộp đơn xin từ chối tiến hành tố
tụng. Tuy nhiên, ngày 20/12/2024, Chánh án Tòa án bàn hành Quyết định số
776/QĐ-TA về việc không chấp nhận đơn yêu cầu thay đổi Thẩm phán và đơn
từ chối tiến hành tố tụng của Thẩm phán, với lý do không có căn cứ để thay đổi
Thẩm phán.
[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, ngày 11/12/2024, người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn tiếp tục yêu cầu thẩm định giá tài sản tranh chấp, yêu cầu Tòa
án chỉ định Công ty Cổ phần Thẩm định giá T để thẩm định giá tài sản. Hội
đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và quyết định tạm ngừng phiên
tòa để định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp theo yêu cầu của nguyên đơn.
Tòa án ban hành Thông báo về thẩm định giá tài sản số 22/TB-TA ngày
11/11/2024 để các bên đương sự thỏa thuận về giá hoặc thỏa thuận lựa chọn tổ
chức thẩm định giá. Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 18/11/2024, bị đơn
7
không đồng ý Công ty Cổ phần Thẩm định giá T thực hiện việc thẩm định giá tài
sản tranh chấp và cũng không thỏa thuận về giá hoặc chọn một tổ chức thẩm
định giá với nguyên đơn. Áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, Tòa án ban hành Quyết định thành lập Hội đồng định giá số
01/2025/QĐ-ĐG ngày 18/3/2025. Ngày 19/3/2025, Hội đồng định giá lập Biên
bản về việc không định giá được tài sản tranh chấp. Tòa án liên hệ Công ty Cổ
phần Thẩm định giá D để xác định chi phí thẩm định giá tài sản tranh chấp. Tại
Thư chào giá dịch vụ thẩm định giá số 45/2025/BDV-TĐG ngày 09/4/2025,
Công ty Cổ phần Thẩm định giá D thông báo cho Tòa án chi phí thẩm định giá
tài sản tranh chấp trong vụ án là 112.000.000 đồng. Tòa án có thông báo cho
nguyên đơn nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng theo Thư chào giá dịch vụ thẩm
định giá số 45/2025/BDV-TĐG ngày 09/4/2025 nhưng nguyên đơn không thực
hiện. Do đó, Tòa án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo quy định chung.
[1.4] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, (ngày 15/8/2023), người đại diện
hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu tạm ngừng phiên tòa để thẩm định giá tài sản
tranh chấp, yêu cầu thay đổi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa nhưng không đưa ra
được lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm (đơn khởi kiện, đơn khởi
kiện bổ sung, biên bản hòa giải, biên bản phiên tòa và các văn bản chứng từ
khác do nguyên đơn gửi bị đơn,…), nguyên đơn và bị đơn thống nhất rằng hai
bên thống nhất ký Hợp đồng gia công số 12052022-SW-DH ngày 12/5/2022,
theo đó Công ty Đ nhận gỗ tròn của Công ty S, sau đó thực hiện các công đoạn
cưa, xẻ, sấy,… rồi giao Công ty S để nhận tiền công.
Hai bên thống nhất Công ty Đ nhận của Công ty S 12.550,0581m
3
gỗ tròn
để gia công; tính đến ngày 13/3/2023 (Bảng theo dõi công nợ ngày 13/3/2023),
Công ty S đã thanh toán số tiền gia công là 10.646.837.729 đồng, còn nợ lại số
tiền 6.689.872.811 đồng.
Công ty S không thực hiện đúng việc thanh toán theo thỏa thuận của hợp
đồng là có lỗi; đến ngày 08/02/2023, hai bên lập “Biên bản họp” với nội dung:
“Bên A (Công ty Đ) tiến hành thẩm định giá thị trường của số gỗ tồn kho từ cơ
quan có thẩm quyền, để có thông tin về giá thanh khoản lô gỗ tồn kho tại kho
Bên A, để có cơ sở thanh lý hàng hóa nếu phương án bán hàng của Bên B (Công
ty S) không thành công... chậm nhất đến ngày 10/3/2023 bên B bán hàng và bên
A thu vào tài khoản bên A ít nhất 02 tỷ đồng, đến ngày 10/4 bên A phải thu vào
ít nhất 03 tỷ đồng, công nợ còn lại hai bên trao đổi thực hiện trong tháng
4/2023. Nếu đến ngày 10/3/2023 mà bên B bán nhưng bên A không thu được 02
tỷ đồng thì bên A có quyền tự bán hàng tồn kho theo giá thẩm định để thu hồ
công nợ...”.
Ngày 15/4/2023, hai bên lập biên bản kiểm kê số lượng gỗ còn lại là
1.469m
3
; ngày 23/6/2023, Công ty S di chuyển khỏi kho của Công ty Đ số
lượng gỗ 1.467m
3
(thiếu 02m
3
so với biên bản kiểm kê do bị hư mục, hai bên
thống nhất và không tranh chấp).
8
[2.2] Hai bên không thống nhất về việc thực hiện nội dung “Biên bản họp”
ngày 08/02/2023.
Công ty Đ trình bày đã thực hiện đúng thỏa thuận, theo đó ngày
14/02/2023, Công ty Đ đã mời Công ty TNHH Kiểm toán và Thẩm định giá
Asia Dragon (ADAC) để thẩm định giá. Chứng thư thẩm định giá ngày
14/02/2023 xác định giá trị gỗ là 11.400.000.000 đồng; việc thẩm định giá có
thông báo cho Công ty S biết nhưng Công ty S không phản đối.
Đến ngày 10/3/2023, Công ty S không thực hiện bán hàng như thỏa thuận
để trả số tiền nợ 2.000.000.000 đồng nên Công ty Đ thực hiện bán số gỗ còn tồn
trong kho của Công ty Đ để thu hồi nợ vào ngày 16 và 17/3/2023 là đúng theo
thỏa thuận.
Công ty S trình bày Công ty Đ tự bán gỗ mà không thông báo cho Công ty
S, gây nhiều thiệt hại cho Công ty S nên yêu cầu Công ty Đ bồi thường.
[2.3] Thấy rằng:
Với những phân tích được nêu tại phần [2.1], [2.2] mục [2] thì tranh chấp
giữa hai chỉ là phần giá trị của 2.210m
3
mà Công ty Đ đã bán vào ngày 16 và
17/3/2023 cho ông Thạch Trung Kiên với số tiền 1.582.000.000 đồng, bán cho
bán cho ông Đặng Trọng S với số tiền 4.000.000.000 đồng và bán cho bà
Nguyễn Thị Kim C với số tiền 1.100.000.000 đồng; tổng số lượng gỗ xẻ bán là
2.210m
3
với giá trị 6.682.000.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện ngày 13/9/2023 và quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ
thẩm, nguyên đơn xác định bị đơn chiếm đoạt số lượng gỗ xẻ đúng 2.210m
3
và
yêu cầu nguyên đơn bồi thường số tiền 20.924.000.000 đồng; ý kiến của nguyên
đơn phù hợp với lời khai và chứng cứ do bị đơn giao nộp là có bán khối lượng
gỗ xẻ của nguyên đơn 2.210m
3
để khấu trừ nợ theo Biên bản họp ngày
08/2/2023.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty S đã không thực hiện việc trả tiền
cho Công ty Đ theo đúng hợp đồng, hai bên thống nhất nội dung “Biên bản họp”
ngày 08/2/2023 để giải quyết tiền nợ của Công ty S. Do đó, “Biên bản họp”
ngày 08/2/2023 là một bộ phận của hợp đồng.
Công ty S chậm thanh toán tiền theo hợp đồng là có lỗi. Công ty Đ trình
bày là khi bán gỗ (để trừ nợ) có thông báo cho Công ty S qua điện thoại, Zalo
nhưng không có chứng cứ chứng minh, Công ty S không thừa nhận nên trong
trường hợp này Công ty Đ là bên có lỗi.
[2.4] Điều 294 Luật Thương mại quy định như sau: “Các trường hợp miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau
đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
9
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản
lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao
kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn
trách nhiệm”.
Như vậy, Công ty S là bên có lỗi chậm thanh toán trước, Công ty Đ không
chứng minh được là có thông báo cho Công ty S tại thời điểm bán gỗ (ngày 16
và 17/3/2023) để trừ nợ theo như thỏa thuận tại Biên bản họp ngày 08/02/2023.
Dù Công ty S thừa nhận đã cùng Công ty Đ kiểm kê số gỗ còn lại (sau khi Công
ty Đ bán gỗ để trừ nợ) ngày 15/4/2023 và nhận lại số gỗ còn lại ngày 23/6/2023
cũng không thể suy đoán rằng Công ty S biết và đồng ý để Công ty Đ bán gỗ để
trừ nợ theo nội dung Biên bản họp ngày 08/02/2023. Trong trường hợp hợp này,
Công ty Đ cũng có lỗi.
Lỗi thiệt hại do chậm thanh toán của Công ty S, Công ty Đ không yêu cầu
giải quyết. Công ty S có quyền yêu cầu Công ty Đ bồi thường thiệt hại do không
được thông báo trước mà Công ty Đ bán tài sản Công ty S để khấu trừ nợ như
quy định tại Điều 302 của Luật Thương mại. Điều 304 của Luật Thương mại
quy định “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ
tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Do đó, trong trường hợp
này, Công ty S phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại bằng việc yêu cầu định
giá, thẩm định giá tại thời điểm tài sản (gỗ) của Công ty S bị bán. Tuy nhiên,
như đã phân tích tại tiểu mục [1] Công ty S đã không thực hiện nghĩa vụ chứng
minh tổn thất nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của
Công ty S.
[2.5] Xét yêu cầu kháng cáo về án phí sơ thẩm của Công ty Đ: Như phân
tích tại mục [2.3], Biên bản họp ngày 08/02/2023 giữa Công ty Đ với Công ty S
là một phần thỏa thuận bổ sung Hợp đồng gia công số 12052022-SW-DH ngày
12/5/2022 giữa hai bên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong hợp
đồng. Công ty Đ bán gỗ để khấu trừ nợ theo Biên bản họp ngày 08/02/2023 là
thỏa thuận bổ sung của hợp đồng, theo đó số tiền nợ của Công ty S là
6.689.872.811 đồng; số tiền Công ty Đ bán gỗ của Công ty S trị giá
6.682.000.000 đồng được khấu trừ vào tiền nợ của Công ty S.
Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty S trả tiền nợ và ghi nhận việc Công ty Đ
trả lại tiền bán gỗ là không đúng thỏa thuận về việc thực hiện hợp đồng giữa hai
bên. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty Đ phải chịu án phí trên số tiền bán
gỗ (để khấu trừ nợ theo thỏa thuận) là chưa đúng, làm thiệt hại đến quyền lợi
của Công ty Đ.
Đồng thời tại đơn khởi kiện nguyên đơn Công ty S yêu cầu Công ty Đ bồi
thường giá trị 2.210m
3
bằng số tiền 20.924.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm
10
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty S và buộc Công ty S chịu
một phần án phí là chưa đúng pháp luật.
Nghĩa vụ chịu án phí, tiền án phí phải nộp thuộc về ngân sách Nhà nước
nên cần buộc bị đơn phải chịu đúng phần án phí sơ thẩm đối với yêu cầu không
được chấp nhận theo quy định của pháp luật.
[3] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn,
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
[4] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố H về việc tạm
ngừng phiên tòa để định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp là không cần thiết.
[5] Về án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn Công ty S không được chấp nhận nên nguyên đơn Công ty S phải
chịu án phí trên số tiền yêu cầu bồi thường 20.924.000.000 đồng.
[6] Về án phí kinh doanh, thương mại phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm
nên người kháng cáo không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 308 và Điều
313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Căn cứ Điều 294, Điều 302, Điều 304 của Luật Thương mại.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
I. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần S.
II. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH Đ.
III. Sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 39/2024/KDTM-ST
ngày 25 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố U, tỉnh D (nay là Tòa
án nhân dân kv B – Thành phố H) như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần S về việc yêu
cầu Công ty TNHH Đ có nghĩa vụ bồi thường cho Công ty Cổ phần S với số tiền
20.924.000.000 đồng (hai mươi tỷ chín trăm hai mươi bốn triệu đồng).
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Nguyên đơn Công ty Cổ phần S phải chịu số tiền 128.924.000 đồng (một
trăm hai mươi tám triệu chín trăm hai mươi bốn nghìn đồng) án phí sơ thẩm,
được khấu trừ số tiền tạm ứng 64.462.000 đồng (sáu mươi bốn triệu bốn trăm
sáu mươi hai nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0001694 ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
U, tỉnh D (nay là Phòng Thi hành án dân sự kv B – Thành phố H, do ông ông
11
Bùi Trần Nam P nộp thay). Công ty Cổ phần S còn phải nộp thêm số tiền
64.462.000 đồng (sáu mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi hai nghìn đồng).
IV. Về án phí kinh doanh, thương mại phúc thẩm:
Công ty Cổ phần S và Công ty TNHH Đ không phải chịu. Hoàn trả cho
Công ty Cổ phần S và Công ty TNHH Đ mỗi công ty số tiền 2.000.000 đồng
(hai triệu đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0000358 ngày 05 tháng 8 năm 2024 (do ông Bùi Trần Nam P nộp
thay) và số 0000365 ngày 06 tháng 8 năm 2024 (do Trần Hải A nộp thay) của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh D (nay là Phòng Thi hành án dân
sự kv B – Thành phố H).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân Tối cao tại TP.H;
- VKSND Tối cao tại TP.H;
- VKSND Thành phố H;
- Phòng THADS kv B – TP.H;
- Tòa án nhân dân kv B – TP.H;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đào Minh Đa
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 15/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm