Bản án số 24/2024/HNGĐ-PT ngày 25/09/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 24/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 24/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 24/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 24/2024/HNGĐ-PT ngày 25/09/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 24/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn, đòi tài sản là quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài sản |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 24/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 25-3-2024
V/v tranh chấp ly hôn, chia tài sản sau
khi ly hôn, đòi tài sản là quyền sử
dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất, hợp đồng vay
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Thái Dũng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thanh Triều
Bà Trần Thị Kim Em
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Hà Vy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thị Thắm - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 18 và 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2024/TLPT-HNGĐ
ngày 22 tháng 01 năm 2024 về tranh chấp “Ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn,
đòi tài sản là quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất, hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 529/2023/HNGĐ-ST ngày 08
tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2024/QĐ-PT ngày 01 tháng 02
năm 2024, giữa các đương sự;
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị B, sinh năm 1981 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Lê Văn
L – Luật sư thuộc Chi nhánh Công ty L1 tại thành phố T – Đoàn luật sư tỉnh L.
- Bị đơn: Nguyễn Mai Trung T, sinh năm 1986 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Văn N, sinh năm 1959 (có mặt)
2. Mai Thị D, sinh năm 1961 (có mặt)
3. Nguyễn Mai Ngọc H, sinh năm 1994; (xin vắng mặt)
4. Nguyễn Mai Tấn Đ, sinh năm 1989; (xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
5. Nguyễn Mai Kim N1, sinh năm 1990; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Long An.
6. Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1978; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: số 638C, Tổ 34, Khu II, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang
7. Nguyễn Văn T1, sinh năm 1950; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
8. Nguyễn Thị T2, sinh năm 1954; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo ủy quyền của ông T1, bà T2, anh Đ, chị H: Nguyễn Văn N,
sinh năm 1959;
9. Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Địa chỉ: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
10. Đồng Văn S, sinh năm 1976; (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ B, Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
11. Ngân hàng C2. (xin vắng mặt)
Địa chỉ: số A, phố L, phường H, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo uỷ quyền: Trần Thị Hoàng Q – Giám đốc Phòng giao
dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện C2, tỉnh Tiền Giang.
- Người làm chứng: Nguyễn Văn T3, sinh năm 1984;
Địa chỉ: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Thị B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm;
* Nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày: Chị Nguyễn Thị B và anh
Nguyễn Mai Trung T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N,
huyện C, tỉnh Tiền Giang. Sau khi kết hôn, thời gian đầu anh chị chung sống
tương đối hạnh phúc nhưng đến khoảng cuối năm 2019 cho đến nay thì giữa anh
chị đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không thể hòa
hợp. Nguyên nhân do anh T là người không chung thủy, không quan tâm chăm
sóc gì đến vợ con. Anh chị đã nhiều lần hòa giải mong hàn gắn hạnh phúc gia
đình nhưng không có kết quả. Hiện tại mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng.
Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, đời
sống chung không thể kéo dài, nên chị Nguyễn Thị B xin ly hôn với anh Nguyễn
Mai Trung T.
Về con chung: Anh chị không có con chung.
Về tài sản chung: Anh chị có thửa đất số 941 tờ bản đồ số 06 (diện tích
1.549m², đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm) địa chỉ ấp N, xã N, huyện C,
tỉnh Tiền Giang, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02594 do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày 10/9/2020 cho Nguyễn Mai Trung T
và Nguyễn Thị B. Trị giá thửa đất ước lượng khoảng 100.000.000 đồng. Trên
một nửa thửa đất (về hướng Tây) chị B có xây dựng một xưởng may bằng tài
sản riêng của chị. Trị giá xưởng may ước lượng khoảng 50.000.000 đồng. Khi ly
hôn chị B yêu cầu được chia đôi thửa đất. Chị B xin nhận phần 1/2 diện tích
hướng Tây (nơi có xưởng may của chị) và chia cho anh Nguyễn Mai Trung T ½
diện tích còn lại.
Về nợ chung: Anh chị không có nợ chung, không yêu cầu toà án giải quyết.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, chị B có ý kiến như sau: Anh Nguyễn
Mai Trung T yêu cầu chị phải chia đôi số tài sản gồm: Về vàng: Dây chuyền
trọng lượng 1,85 lượng vàng 24k, bộ vòng ximen trọng lượng 1,5 lượng vàng
24k, hai chiếc vòng trọng lượng 06 lượng vàng 24k và một chiếc nhẫn trị giá
5.000.000 đồng; Về máy móc: 03 máy may 2 kim, 02 máy điện tử hiệu JAX,
máy một bước, máy lập trình. Đối với số lượng vàng như anh T liệt kê, chị
không có quản lý số tài sản như anh T trình bày và vợ chồng cũng không có sở
hữu số vàng này. Đối với các máy móc: không có máy một bước, đối với 03
máy may 2 kim, 02 máy điện tử hiệu JAX và máy lập trình trước đây chị có sử
dụng. Tuy nhiên do máy đã cũ, chị và anh T đã thống nhất bán thanh lý các máy
này để đầu tư máy mới, anh T là người đứng ra bán nên chị không biết bán cho
ai. Sau khi bán máy cũ, chị định đầu tư mua máy mới thì xảy ra mâu thuẫn gia
đình, chị nộp đơn xin ly hôn nên không tiếp tục đầu tư sản xuất. Hiện tại, chị
đang may gia công thuê cho người khác nên không không có tài sản gì có giá trị.
Đối với yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, chị B có ý kiến như sau:
Nguồn gốc thửa đất số 941, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.549m², loại đất: đất ở tại
nông thôn và đất trồng cây lâu năm, địa chỉ tại: ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền
Giang theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CS02594 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp
ngày 10/9/2020 do cha mẹ ruột của ông Nguyễn Mai Trung T là ông Nguyễn
Văn N và bà Mai Thị D tặng cho chị và anh T. Chị và anh T quản lý sử dụng
thửa đất số 941 trước khi ông N và bà D làm thủ tục sang tên vào năm 2020.
Hiện tại, ngoài phần nhà ở trước đây chị và anh T chung sống, chị còn đầu tư
làm nhà tiền chế để làm xưởng may gia công, phần còn lại chị và anh T trồng
cây. Việc ông N, bà D tặng cho đất cho chị và anh T là hoàn toàn tự nguyện,
không bị ai ép buộc. Khi tặng cho ông N, bà D xác định tặng cho chung đối với
chị và anh T, việc tặng cho được tiến hành đúng theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Quá trình sử dụng đất, xây nhà ở nhà tiền chế và khi
làm thủ tục sang tên thì anh Đ, chị N1, chị P đều biết và không ai có ý kiến ngăn
cản gì. Do đó, trước yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án nhân dân huyện C tuyên
hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 19/5/2020 được UBND xã N
chứng thực số 104, quyển số 01/2020- SCC/HĐGD, buộc chị và anh T trả lại
thửa đất thì chị không đồng ý. Đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân
hàng chính sách xã hội yêu cầu chị và anh Nguyễn Mai Trung T có nghĩa vụ liên
đới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 13.800.000 đồng và lãi suất phát sinh.
Đối với khoản tiền này, chị có ký tên cho anh T vay nên chị đồng ý mỗi người
trả ½ số nợ, tương ứng 6.900.000 đồng và ½ số tiền lãi phát sinh. Trong trường
hợp Ngân hàng không đồng ý mỗi người trả ½ số nợ thì chị đồng ý cùng với anh
T liên đới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 13.800.000 đồng và lãi suất phát
sinh.
* Bị đơn anh Nguyễn Mai Trung T có yêu cầu phản tố trình bày: Anh T và
chị B kết hôn năm 2017, giấy chứng nhận kết hôn do UBND xã N, huyện C, tỉnh
Tiền Giang cấp ngày 17/7/2017. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị B có quan hệ
tình cảm với người đàn ông khác, hiện tại vẫn đang sống chung với người đó.
Trước đây anh biết nên có hỏi thì chị B nói là anh nuôi, cự cãi qua lại nên nóng
giận anh có tát 01 bạt tay. Trong thời gian sống chung, chị B có kêu cha mẹ anh
sang tên nhà đất để lấy vốn làm ăn, anh nói thì cha mẹ anh đồng ý, do không
muốn cho gia đình biết nên chị B nhờ dịch vụ làm. Sau khi nhận giấy đất vợ
chồng vẫn sống chung, đến ngày 12/11/2020 Tòa án mời hòa giải anh mới biết
chị B đã nộp đơn ly hôn. Sau ngày Tòa án mời hòa giải, chị B đã dọn ra ngoài
thuê nhà ở chung với người đàn ông đó cho đến nay. Vợ chồng không còn tình
cảm nên anh đồng ý ly hôn. Con chung không có.
Về tài sản chung: Trong thời gian hôn nhân vợ chồng có tài sản chung là
nhà kho (xưởng may), nữ trang mua ở tiệm V tại chợ xã D, huyện C gồm: dây
chuyền 1,85 lượng vàng 24k, bộ vòng ximen 1,5 lượng vàng 24k, 02 chiếc vòng
06 lượng vàng 24k, 01 chiếc nhẫn kiểu vàng 24k giá mua 5.000.000 đồng thành
tiền là 210.990.000 đồng; tài sản khác gồm: 03 máy may kim, 02 máy điện tử
hiệu JAX, máy một bước, máy lập trình tổng cộng là 103.000.000 đồng. Tổng
cộng của vàng và máy móc là 313.992.000 đồng. Hiện anh đang quản lý nhà
xưởng, tài sản còn lại do chị B quản lý. Số vàng khi mua có giấy tờ, khi chị B
dọn đi đã đem theo hết nên anh không có để cung cấp cho Tòa án. Đối với máy
móc thì ngày anh đến Tòa hòa giải là ngày 12/11/2020 vẫn còn ở nhà nhưng khi
trở về thì không còn, anh có nghe hàng xóm nói lại là có người đến đem đi (nay
anh biết là người hiện chị B đang sống chung). Các máy móc này chỉ có 01 máy
may 2 kim là máy cũ (mới mua), còn lại là mua máy móc mới để may vỏ xách,
đang sử dụng thì chị B xin ly hôn, sau đó đã cho người dọn đi hết. Theo anh
những máy móc này đang để tại nhà chị B thuê ở. Vàng và máy móc thì anh yêu
cầu chị B chia lại cho anh ½ giá trị (vàng tính thời điểm Tòa án giải quyết).
Đối với nhà xưởng, chị B muốn tháo dỡ lấy gì thì lấy để trả đất lại cho cha
mẹ anh, nguồn gốc cha tặng cho để vay tiền làm ăn, anh không đồng ý chia giá
trị đất. Về căn nhà trên đất là do ông Nguyễn Văn N cất sẵn cho anh ở để giữ
vườn, anh cưới vợ về ở và hiện không có tu bổ. Đối với những yêu cầu của cha
mẹ và hộ gia đình anh, anh đồng ý trả đất, đồng ý hủy hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất. Anh không đồng ý chia đất theo yêu cầu của chị B.
Về nợ chung: Khi xây dựng nhà kho vào tháng 7/2020, anh có mua vật liệu
xây dựng của cửa hàng H3 của anh Đồng Văn S tổng số tiền là 57.700.000 đồng,
đã trả trước 5.000.000 đồng, còn nợ lại số tiền 52.700.000 đồng và mới đây anh
có trả thêm 30.000.000 đồng. Ngoài ra anh có vay của Ngân hàng chính sách xã
hội huyện C2 số tiền 20.000.000 đồng để xây dựng nước sạch và hầm cầu nhưng
anh lấy số tiền đó để xây dựng nhà kho, anh đã trả dần hàng tháng, hiện còn nợ
lại Ngân hàng 13.800.000 đồng. Nay anh T yêu cầu chị B có trách nhiệm hoàn
trả 50% số tiền còn nợ.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn N và bà Mai Thị D có yêu cầu độc lập trình bày:
Nguyên trước đây vợ chồng ông có thửa đất diện tích 1.549m², thửa số 941, tờ
bản đồ số 6, địa chỉ ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Cách đây khoảng 4
năm, vợ chồng T và B về chung sống thì vợ chồng ông cho ra ở riêng trên phần
đất này. Cách nay khoảng 3 tháng, vợ chồng T và B yêu cầu vợ chồng ông sang
tên phần đất trên để T và B có thiếu vốn làm ăn thì vay được tiền. Vợ chồng ông
sang tên giấy đất cho vợ chồng anh T là để vợ chồng làm ăn, sống với nhau
nhưng chị B không chung thủy, ly hôn với Tính nên đất phải trả lại cho ông. Khi
làm thủ tục thì vợ chồng ông, con gái út, anh T có ký tên. Mục đích là tặng cho
để vay vốn làm ăn (do mới cất nhà xưởng) nên ông tin tưởng. Vợ chồng ly hôn
không có làm ăn gì nữa nên ông yêu cầu trả lại đất. Đất là của hộ gia đình. Anh
Đ, N1, phượng không biết và không ký tên vào hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất, ông bà cũng không nói cho biết, việc cho ở thì biết chứ sang tên không
biết. Hộ gia đình ông gồm: ông, bà D, Đ, N1, H, P và mẹ ông là bà Nguyễn Thị
K chết năm 2017. Mẹ ông có 03 người con là Nguyễn Văn T1, Nguyễn Thị T2
và ông. Ông đại diện ủy quyền của ông T1, bà T2 không thống nhất việc tặng
cho quyền sử dụng đất cho vợ chồng T, ông không có nói cho họ biết việc tặng
cho quyền sử dụng đất. Theo ông đất là của hộ, trong đó có mẹ ông là thành viên
trong hộ.
- Anh Nguyễn Mai Tấn Đ, Nguyễn Mai Kim N1, Nguyễn Thị Kim P có yêu
cầu độc lập trình bày: Khi cưới chị B về thì anh T đã có nhà nên anh chị ở và
canh tác đất, anh chị biết cha mẹ cho ở, còn việc sang tên thì hoàn toàn không
biết. Trước đây các anh chị cùng cha mẹ, gia đình đều có canh tác đất (làm
ruộng, làm vườn), theo anh chị đất này là của cả gia đình. Anh chị đồng yêu cầu
Tòa án xem xét giải quyết hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy
ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực ngày 19/5/2020, số
chứng thực 104, quyển số 01/2020, giữa bên tặng cho là hộ ông Nguyễn Văn N
và bên nhận tặng cho là ông Nguyễn Mai Trung T, cùng vợ là bà Nguyễn Thị B.
Lý do: Thửa đất được tặng cho thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
2788 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 16/3/2001. Tại
thời điểm cấp giấy chứng nhận năm 2001, hộ ông Nguyễn Văn N có 08 thành
viên (theo xác nhận của Công an xã N ngày 29/5/2021) gồm: Nguyễn Văn N,
Mai Thị D, Nguyễn Mai Trung T, Nguyễn Mai Tấn Đ, Nguyễn Mai Kim N1,
Nguyễn Mai Ngọc H, Nguyễn Thị K, Nguyễn Thị Kim P nhưng khi ký hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất không được sự đồng ý của tất cả thành viên
trong hộ (gồm: Nguyễn Mai Tấn Đ, Nguyễn Mai Kim N1, Nguyễn Thị Kim P).
- Bà Nguyễn Thị T2 có yêu cầu độc lập trình bày: Trong lúc mẹ bà còn
sống chung với em trai Nguyễn Văn N có thửa đất 1.549m² tại ấp N, xã N,
huyện C, tỉnh Tiền Giang được cấp chung hộ Nguyễn Văn N. Nay mẹ bà đã mất.
Vợ chồng em trai bà tự ý cho con là Nguyễn Mai Trung T và Nguyễn Thị B thửa
đất nói trên mà không thông qua ý kiến của bà. Bà yêu cầu Tòa án xem xét hủy
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã N, huyện C,
tỉnh Tiền Giang chứng thực ngày 19/5/2020, số chứng thực 104 quyển số
01/2020, giữa bên tặng cho là hộ ông Nguyễn Văn N và bên nhận tặng cho là
ông Nguyễn Mai Trung T cùng vợ là bà Nguyễn Thị B.
- Ông Nguyễn Văn T1 có yêu cầu độc lập trình bày: Trong lúc mẹ ông còn
sống chung với em trai Nguyễn Văn N có thửa đất 1.549m² tại Ấp N, xã N,
huyện C, tỉnh Tiền Giang được cấp chung hộ Nguyễn Văn N. Nay mẹ ông đã
mất. Vợ chồng em trai ông tự ý cho con là Nguyễn Mai Trung T và Nguyễn Thị
B thửa đất nói trên mà không thông qua ý kiến của ông. Ông yêu cầu Tòa án
xem xét hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã N,
huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực ngày 19/5/2020, số chứng thực 104 quyển
số 01/2020, giữa bên tặng cho là hộ ông Nguyễn Văn N và bên nhận tặng cho là
ông Nguyễn Mai Trung T cùng vợ là bà Nguyễn Thị B.
- Chị Nguyễn Mai Ngọc H có yêu cầu độc lập trình bày: Chị yêu cầu Tòa
án xem xét hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã
N, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực ngày 19/5/2020, số chứng thực 104
quyển số 01/2020, giữa bên tặng cho là hộ ông Nguyễn Văn N và bên nhận tặng
cho là ông Nguyễn Mai Trung T cùng vợ là bà Nguyễn Thị B. Lý do, khi chị ký
tên vào hợp đồng chị không đọc nội dung của hợp đồng tặng cho vì thời điểm đó
dịch covid 19 đang phức tạp, chị công tác ở bệnh viện Đ1 nguy cơ lây bệnh cho
gia đình nhiều nên chị sơ sót. Khi chị ký vào hợp đồng, chị chỉ muốn cho riêng
anh Nguyễn Mai Trung T, không có ý định tặng cho chị Nguyễn Thị B.
- Ngân hàng C2 trình bày: Vào ngày 14/07/2020 ông Nguyễn Mai Trung T
vay vốn tại Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện C2 theo HĐTD
số: 7102264491; số tiền vay: 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), lãi suất
9%/năm, ngày vay: 14/07/2020; hạn trả: 14/07/2025, mục đích vay: hoà mạng
nước sạch, xây dựng nhà vệ sinh và đã thoả thuận với ngân hàng trả nợ 09 lần
như theo phân kỳ trả nợ, mỗi lần trả 2.200.000 đồng. Đến ngày 06/04/2023 hộ
vay đã trả góp số tiền gốc 6.200.000 đồng, hiện tại số dư nợ gốc của món vay
này là 13.800.000 đồng (Mười ba triệu tám trăm ngàn đồng). Nay bà Nguyễn
Thị B xin ly hôn với chồng là ông Nguyễn Mai Trung T. Do đó Phòng giao dịch
Ngân hàng chính xã hội huyện C đề nghị Toà án nhân dân huyện C yêu cầu ông
Nguyễn Mai Trung T và bà Nguyễn Thị B có trách nhiệm liên đới trong việc trả
số tiền vay gốc là 13.800.000 đồng và tiền lãi phát sinh.
- Ủy ban nhân dân xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang trình bày: Thực hiện
theo công văn số 356/CV- TAH ngày 05/12/2022 của Toà án nhân dân huyện C,
về việc cung cấp cho toà án thông tin về việc tặng cho quyền sử dụng đất của
ông Nguyễn Văn N. Ủy ban nhân dân xã N có ý kiến như sau: Vào ngày
19/05/2020 Ủy ban nhân dân xã N có nhận dự thảo hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất của hộ ông Nguyễn Văn N cho con là Nguyễn Mai Trung T. Căn cứ dự
thảo hợp đồng của hai bên, Uỷ ban nhân xã N thực hiện việc chứng thực chữ ký
theo Nghị định 23/2015 về chứng thực hợp đồng giao dịch, việc chứng thực hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất trong hộ ông Nguyễn Văn N là đúng theo quy
định, do hai bên thoả thuận dự thảo hợp đồng, về việc bỏ sót thành viên trong
hộ ông N không đúng quy định chịu trách nhiệm trước pháp luật. Toà án xem
xét giải quyết theo quy định.
- Anh Đồng Văn S trình bày: Năm 2016, anh Nguyễn Mai Trung T có đến
mua vật liệu xây dựng tại cửa hàng của anh để về xây nhà kho tiệm may. Theo
biên nhận ngày 16/4/2020 anh T còn nợ lại cửa hàng số tiền 20.000.000 đồng và
32.700.000 đồng. Nay anh S chưa có yêu cầu về số tiền nợ này, khi nào có yêu
cầu anh sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
- Anh Lê Thanh B1 trình bày: Anh B1 xác nhận cửa hàng M Hàng có bán
số lượng máy móc như trong giấy xác nhận ngày 15/01/2022 anh B1 là người ký
tên và đóng mộc của cửa hàng vào giấy xác nhận ngày 15/01/2022 Theo chị Lê
Thị Bình H1 trình bày: đến ngày 8/4/2022 anh T có đến nhờ chị xác nhận vào
giấy xác nhận ngày 8/4/2022. Do chị không biết trước đây anh B1 đã có ký xác
nhận cho anh T nên chị H1 đã ký xác nhận và đóng mộc của cửa hàng vào giấy
xác nhận. Anh B1 và chị H1 cùng xác nhận: giấy xác nhận ngày 08/4/2022 và
giấy xác nhận ngày 15/01/2022 là cùng một nội dung.
- Bà Phạm Thị Kim C trình bày: Bà là chủ tiệm V. Do thời gian đã lâu và
lượng khách mua tại cửa hàng đông nên bà không nhớ chị B1 và anh T có đến
mua vàng tại cửa hàng của bà.
* Người làm chứng anh Nguyễn Văn T3 trình bày: Khoảng tháng 10/2020,
anh không nhớ ngày, chị B1 có gọi điện kêu anh đến nhà may tại ấp N, xã N chở
máy may về ấp T, xã N. Anh có xuống chở 06 máy may và những vật dụng vải
vụn, dây điện, bóng đèn. Anh T3 chia ra làm 02 chuyến để chở, chị B1 có trả
tiền xe cho anh là 150.000 đồng.
Tại Bản án sơ thẩm số 529/2023/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Toà
án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 3
Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 217, Điều 218, khoản
2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào các Điều
27, 33, 55, 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ vào các Điều
166, 212, 463, 423, 427 của Bộ luật Dân sự. Căn cứ Luật Đất đai 2013. Căn cứ
Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng. Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12 / 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị
B.
Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị
B và anh Nguyễn Mai Trung T.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Mai Trung T được
chia giá trị tài sản chung mỗi người số tiền là 69.759.286 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu chia quyền sử dụng đất của chị Nguyễn Thị B
đối với thửa đất số 941, tờ bản đồ số 06, diện tích 1.549m
2
địa chỉ ấp N, xã N,
huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn anh Nguyễn Mai Trung T
về yêu cầu chia giá trị số vàng nữ trang và yêu cầu chia giá trị các tài sản gồm
các máy phục vụ cho việc may túi xách.
4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chị Nguyễn Mai Ngọc H, anh Nguyễn Mai Tấn Đ, chị Nguyễn Mai Kim N1, chị
Nguyễn Thị Kim P.
Tuyên huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 19/5/2020 được
UBND xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực, giữa bên tặng cho là hộ ông
Nguyễn Văn N cùng thành viên trong hộ bà Mai Thị D và chị Nguyễn Mai Ngọc
H với bên được tặng cho là anh Nguyễn Mai Trung T và chị Nguyễn Thị B đối
với thửa đất số 941, tờ bản đồ số 06, diện tích 1.549m
2
địa chỉ thửa đất: ấp N, xã
N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
5. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Văn N và bà Mai Thị D.
Buộc anh Nguyễn Mai Trung T và chị Nguyễn Thị B giao trả phần đất và
tài sản trên đất thuộc thửa đất số 941 tở bản đồ số 06, diện tích thực đo là
1.615,4m² địa chỉ thửa đất: ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang cho hộ ông
Nguyễn Văn N. (Kèm theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất).
Ghi nhận ông Nguyễn Văn N đồng ý hoàn giá trị tài sản trên đất cho chị
Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Mai Trung T mỗi người số tiền là 69.759.286
đồng.
Các đương sự được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
đăng ký kê khai biến động quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 95 của Luật
đất đai.
6. Đình chỉ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2.
7. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng C2.
Buộc anh Nguyễn Mai Trung T và chị Nguyễn Thị B có trách nhiệm liên
đới trả cho ngân hàng C2 xã hội số tiền nợ gốc là 12.200.000 đồng và nợ lãi tạm
tính đến ngày 21/8/2023 là 21.058 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, chi phí tố tụng,
án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
* Ngày 16/9/2023, bị đơn Nguyễn Thị B có đơn kháng cáo một phần bản
án sơ thẩm của TAND huyện C, tỉnh Tiền Giang. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
theo thủ tục phúc thẩm, áp dụng Án lệ số 03/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, tuyên sửa án sơ thẩm không chấp nhận
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc yêu cầu
tuyên vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 19/5/2020 chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia tài sản chung là thửa đất số 941,
tờ bản đồ số 6, diện tích 1.549m
2
, loại đất ở tại nông thôn và đất trồng cây lâu
năm, tọa lạc tại Ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Tại phiên tòa phúc thẩm; chị B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, xác định
phần đất ở thửa số 941, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.549m
2
là tài sản vợ chồng
được cho chung trong thời kỳ hôn nhân, yêu cầu chia theo pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn có ý kiến cho rằng phần đất
ở thửa số 941, tờ bản đồ số 6, diện tích 1.549m
2
anh T và chị B được cho tặng
trong thời kỳ hôn nhân, anh chị đã xây nhà, xưởng ở ổn định, những thành viên
hộ gia đình ông N đều biết, nhưng không ai có ý kiến nên theo tinh thần Án lệ số
03/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xác định phần đất ở thửa số 941, tờ bản đồ số
6, diện tích 1.549m
2
là tài sản vợ chồng được cho chung trong thời kỳ hôn nhân
của chị B và anh T và chia theo pháp luật khi ly hôn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Cấp sơ thẩm cho chị B ly hôn với anh T; Không chấp nhận
yêu cầu chia quyền sử dụng đất của chị Nguyễn Thị B đối với thửa đất số 941,
tờ bản đồ số 06, diện tích 1.549m
2
; Buộc anh Nguyễn Mai Trung T và chị
Nguyễn Thị B giao trả phần đất và tài sản trên đất thuộc thửa đất số 941 tở bản
đồ số 06, diện tích thực đo là 1.615,4m² Ghi nhận ông Nguyễn Văn N đồng ý
hoàn giá trị tài sản trên đất cho chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Mai Trung T
mỗi người số tiền là 69.759.286 đồng là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét
xử giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh Tiền Giang.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của
các đương sự; căn cứ kết quả tranh tụng và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát
tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Nguyễn Thị B khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu chia tài sản với bị
đơn là anh Nguyễn Mai Trung T; ông Nguyễn Văn N, bà Mai Thị D, Nguyễn
Mai Ngọc H, Nguyễn Mai Tấn Đ, chị Nguyễn Mai Kim N1, chị Nguyễn Thị
Kim P có yêu cầu độc lập hủy hợp đồng cho tặng quyền sử dụng đất và đòi lại
quyền sử dụng đất mà anh T, chị B được cấp QSDĐ, cấp sơ thẩm xác định quan
hệ tranh chấp “Xin ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn, đòi tài sản là quyền sử
dụng đất, yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hợp đồng vay tài
sản” và thụ lý giải quyết là phù hợp với Điều 26, Điều 28, khoản 1 Điều 39 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Ngày 08 tháng 9 năm 2023 Tòa án nhân dân huyện C đưa ra xét xử vụ
tranh chấp ly hôn, chia tài sản giữa chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Mai Trung
T, không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, ngày 16/9/2023 chị B
kháng cáo bản án là còn trong hạn luật định theo quy định tại Điều 271, 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, các bên đương
sự đã thống nhất thuận tình ly hôn, thống nhất 01 phần trong việc phân chia tài
sản và nợ, chỉ kháng cáo và tranh chấp đối với thửa đất số 941, tờ bản đồ số 6,
diện tích 1.549m
2
hiện do anh T và chị B đứng tên QSDĐ, nên chỉ xét trong
phạm vi kháng cáo của nguyên đơn về phần đất ở thửa số 941, diện tích
1.549m
2
, những phần khác không xem xét lại.
Xét yêu cầu kháng cáo của chị B thì thấy rằng: anh T và chị B kết hôn vào
năm 2017, sống hòa thuận đến năm 2019 thì mâu thuẫn và ly thân; sau khi kết
hôn anh chị về sống trên căn nhà có sẵn (do ông N xây dựng) tại phần đất thửa
số 941, diện tích 1.549m
2
, đến ngày 19/5/2020 thì cả hai được ông N, bà D, chị
H lập hợp đồng cho tặng phần đất này (thửa số 941, diện tích 1.549m
2
), đến
ngày 10/9/2020 được sở T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến ngày
19/10/2020 chị B nộp đơn xin ly hôn và tranh chấp phần đất này với anh T tại
Tòa án nhân dân huyện C. Xét về nguồn gốc phần đất này do gia đình ông N
nhận chuyển nhượng của người khác vào năm 2000, đến 16/3/2001 hộ ông N
được cấp quyền sử dụng phần đất, tại thời điểm được cấp quyền sử dụng đất thì
hộ gia đình ông N có 08 thanh viên gồm: Nguyễn Văn N, Mai Thị D, Nguyễn
Mai Trung T4, Nguyễn Mai Tấn Đ, Nguyễn Mai Kim N1, Nguyễn Mai Ngọc H,
Nguyễn Thị Kim P, tính tại thời điểm lập hợp đồng cho tặng quyền sử dụng đất
cho anh T, chị B thì trong hộ ông N còn 04 thành viên (03 người trên 18 tuổi và
01 người chưa thành niên). Tuy nhiên tại hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
được Ủy ban nhân dân xã N, huyện C chứng thực ngày 19/5/2020 chỉ có 03
người là ông N, bà D, chị H ký tên, phần đất trên được cấp cho hộ gia đình vào
năm 2001 nên hợp đồng chứng thực ngày 19/5/2020 không có giá trị pháp lý,
Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định hợp đồng vô hiệu và tuyên hủy hợp đồng này
là có căn cứ.
Về yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn đề nghị áp dụng Án lệ số
03/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
để công nhận hiệu lực hợp đồng là chưa thỏa đáng, bởi lẽ anh T và chị B chỉ
được cho phần đất (thửa số 941, diện tích 1.549m
2
) vào ngày 19/5/2020 đến
10/9/2020 mới được cấp giấy cả hai không xây dựng nhà ở hay có công sức
đóng góp gì đáng kể, chỉ xây dựng 01 nhà tiền chế để phục vụ việc may gia
công, sau khi được chuyển quyền sử dụng đất thời gian ngắn thì ly hôn và tranh
chấp trong khi phần đất trên cấp cho hộ gia đình, khi cho tặng chỉ có 03/08
thành viên hộ xác lập, sau khi biết sự việc thì các thành viên trong hộ đều phản
đối cho nên hợp đồng cho tặng đã vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật
dân sự, nội dung tranh chấp trong vụ án này không phù hợp với tình tiết nêu tại
Án lệ số 03/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao nên không có căn cứ để xem xét.
Từ những phân tích trên, xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn và ý kiến
của người bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho chị B không có cơ sở xem xét.
Ý kiến phát biểu, quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Tiền Giang phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị B nên chị phải chịu án phí
phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 529/2023/DS-ST ngày 08 tháng 9
năm 2023 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 147, Điều 217, Điều 218, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228
của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 27, 33, 55, 59 của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014; các Điều 166, 212, 463, 423, 427 của Bộ luật Dân sự; Luật Đất
đai 2013; Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12 / 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị
B.
Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị
B và anh Nguyễn Mai Trung T.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Mai Trung T được
chia giá trị tài sản chung mỗi người số tiền là 69.759.286 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu chia quyền sử dụng đất của chị Nguyễn Thị B
đối với thửa đất số 941, tờ bản đồ số 06, diện tích 1.549m
2
địa chỉ ấp N, xã N,
huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn anh Nguyễn Mai Trung T
về yêu cầu chia giá trị số vàng nữ trang và yêu cầu chia giá trị các tài sản gồm
các máy phục vụ cho việc may túi xách.
4. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chị Nguyễn Mai Ngọc H, anh Nguyễn Mai Tấn Đ, chị Nguyễn Mai Kim N1, chị
Nguyễn Thị Kim P.
Tuyên huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đề ngày 19/5/2020 được
UBND xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang chứng thực, giữa bên tặng cho là hộ ông
Nguyễn Văn N cùng thành viên trong hộ bà Mai Thị D và chị Nguyễn Mai Ngọc
H với bên được tặng cho là anh Nguyễn Mai Trung T và chị Nguyễn Thị B đối
với thửa đất số 941, tờ bản đồ số 06, diện tích 1.549m
2
địa chỉ thửa đất: ấp N, xã
N, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
5. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Văn N và bà Mai Thị D.
Buộc anh Nguyễn Mai Trung T và chị Nguyễn Thị B giao trả phần đất và
tài sản trên đất thuộc thửa đất số 941 tở bản đồ số 06, diện tích thực đo là
1.615,4m² địa chỉ thửa đất: ấp N, xã N, huyện C, tỉnh Tiền Giang cho hộ ông
Nguyễn Văn N. (Kèm theo phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất).
Ghi nhận ông Nguyễn Văn N đồng ý hoàn giá trị tài sản trên đất cho chị
Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Mai Trung T mỗi người số tiền là 69.759.286
đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Các đương sự được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
đăng ký kê khai biến động quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 95 của Luật
đất đai.
6. Đình chỉ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị T2.
7. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng C2.
Buộc anh Nguyễn Mai Trung T và chị Nguyễn Thị B có trách nhiệm liên
đới trả cho ngân hàng C2 xã hội số tiền nợ gốc là 12.200.000 đồng và nợ lãi tạm
tính đến ngày 21/8/2023 là 21.058 đồng.
Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí hôn
nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003428 ngày
26/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang nên chị
Nguyễn Thị B đã nộp xong án phí.
Chị Nguyễn Thị B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 4.093.490 đồng, được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.250.000 đồng theo biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003427 ngày 26/10/2020 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang nên chị Nguyễn Thị B phải nộp tiếp số
tiền là 2.843.490 đồng.
Anh Nguyễn Mai Trung T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 11.943.240
đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.925.000 đồng theo
biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004301 ngày 27/4/2021 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang nên anh T còn phải nộp tiếp số
tiền 8.018.240 đồng.
H2 lại anh Nguyễn Mai Tấn Đ, chị Nguyễn Mai Kim N1, chị Nguyễn Thị
Kim P số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0003598 ngày 19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
H2 lại chị Nguyễn Mai Ngọc H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000
đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0021801 ngày 31/5/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
H2 lại ông Nguyễn Văn T1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0020321 ngày 26/4/2022 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
H2 lại bà Nguyễn Thị T2 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0020322 ngày 26/4/2022 của
Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
H2 lại ông Nguyễn Văn N, bà Mai Thị D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003523 ngày
12/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Án phí phúc thẩm: Chị Nguyễn Thị B phải chịu 300.000đ án phí dân sự
phúc thẩm được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu
số 0011920, ngày 19/9/2023 của C1 cuc thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền
Giang nên không phải nộp thêm.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện C;
- CCTHADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ngọc Thái Dũng
Tải về
Bản án số 24/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 24/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm