Bản án số 236/2025/DS-PT ngày 09/12/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 236/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 236/2025/DS-PT ngày 09/12/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 236/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/12/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp kiện đòi tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 236/2025/DS-PT
Ngày 09 - 12 - 2025
V/v Tranh chấp kiện đòi tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Nghĩa.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Trọng và ông Nguyễn Duy Sơn.
- Thư phiên toà: Đào Thị Tuyền - Thư Toà án nhân dân tỉnh
Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa: Bà
Hoàng Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 12 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ (cơ
sở 2) xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 202/2025/TLPT-DS
ngày 05 tháng 11 năm 2025 về việc “Tranh chấp kiện đòi tài sản”. Do Bản án
dân sthẩm số: 28/2025/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2025 của Toà án nhân
dân khu vực 9 - Phú Thọ bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x
phúc thẩm số: 224/2025/QĐ-PT ngày 19 tháng 11 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đoàn Văn C, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn P, H,
tỉnh Phú Thọ (có mặt);
2. Bị đơn: Ông Đào Văn N, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn P, H, tỉnh
Phú Thọ (có mặt);
3. Người kháng cáo: Ông Đào Văn N - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đngày 13 tháng 3 năm 2025 những lời khai tiếp
theo, nguyên đơn ông Đoàn Văn C trình bày: Ông với ông Đào Văn N mối
quan hệ người cùng thôn với nhau. Ngày 11/11/2011, ông N đến nhà ông
để vay số tiền 20.000.000đồng có viết nội dung vay tiền vào sổ của ông, lãi suất
3%/tháng. Ngoài ra, giữa ông ông N còn thỏa thuận bằng lời nói thời hạn
vay 02 năm, tức đến ngày 11/11/2013 ông N phải trả cho ông toàn bộ số tiền
gốc 20.000.000đồng, còn tiền lãi trả theo hàng tháng 600.000đồng/tháng.
Khoảng tháng 01/2019, ông một lần đến nhà ông N để yêu cầu ông N trả
khoản nợ trên nhưng ông N khất nợ. Khoảng giữa năm 2023, ông cũng một
lần đến nhà ông N để yêu cầu ông N phải trả lại cho ông số tiền gốc tiền lãi
của khoản nợ trên nhưng ông N không đồng ý trả. Ngoài hai lần ông đến nhà
2
ông N để trực tiếp đòi nợ như trên thì ông không lần nào khác đòi nợ đối với
ông N. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N phải trả cho ông số tiền
gốc 20.000.000đồngvà lãi suất 18%/năm, tức 300.000đồng/tháng x 158 tháng =
47.400.000đồng (tính đến ngày 11/3/2025), tổng cộng 67.400.000đồng. Tại
phiên tòa thẩm, ông tự nguyện thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu ông N
phải trả cho ông số tiền gốc, không yêu cầu ông N phải trả cho ông số tiền lãi,
cụ thể như ông đã trình bày ở trên.
Bị đơn ông Đào Văn N trình bày: Mối quan hệ giữa ông và ông Đoàn Văn
C người cùng thôn quen biết nhau. Từ trước đến nay giữa ông ông Đoàn
Văn C không mâu thuẫn gì. Ngày 11/11/2011, ông C đến uống bia tại gia
đình ông, thời điểm đó gia đình ông có bán bia. Ông đã hỏi vay ông C
20.000.000đồng. Khi vay, ông có viết nội dung vay tiền vào sổ của ông C là “An
Hòa ngày 11/11/2011 dương lịch. Tôi Đào Văn N vay của anh C (C) số tiền
20.000.000đồng, lãi suất 3%/tháng” và ông đã ghi họ tên. Ngoài ra, hai
bên còn thỏa thuận bằng lời nói thời hạn vay là 1 năm, tức đến ngày 11/11/2012,
ông phải trả cho ông C toàn bộ số tiền gốc, tiền lãi trả theo hàng tháng
600.000đồng/tháng. Ông xác định ông vay tiền của ông C, tuy nhiên khi viết nội
dung vay nợ vào sổ của ông C ông vay của ông C (C1) số tiền
20.000.000đồng vợ ông C tên (C1) nên ông đã viết như vậy. Ông xác
định số tiền ông vay 20.000.000đồng vay của ông C, không liên quan đến
C1, ông không vay tiền của C1. Quá trình vay, trước khi đến thời hạn trả
khoảng vài ngày, tức vài ngày trước ngày 11/11/2012, nhưng chính xác
ngày nào thì ông không nhớ cụ thể, ông đã trả hết cho ông C toàn bộ số tiền gốc
và số tiền lãi. Số tiền 20.000.000đồng mà ông đã vay của ông C, ông đã sử dụng
vào mục đích nhân của ông, không sử dụng vào việc gia đình. Vợ, con ông
không biết không liên quan đến khoản vay này. Kể từ thời điểm ngày
11/11/2012, do ông đã thanh toán hết khoản ntrên cho ông C nên ông C không
lần nào yêu cầu ông phải trả cho ông C khoản nợ trên. Tuy nhiên, ông không
tài liệu chứng cứ gì để chứng minh, để giao nộp cho Tòa án. Nay ông C yêu
cầu Tòa án giải quyết buộc ông phải trả cho ông C số tiền gốc 20.000.000đồng
ông không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông C, không đồng ý trả số
tiền mà ông C yêu cầu vì ông đã trả cho ông C đầy đủ khoản nợ. Kể từ thời điểm
ông trả hết khoản nợ cho ông C tháng 11/2012 cho đến nay đã gần 13 năm
tròn nên đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu vì ông được biết đã hết thời hiệu khởi
kiện theo quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.
Với nội dung nêu trên, tại Bản án số 28/2025/DS-ST ngày 10/9/2025 của
Tòa án nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 146, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266 và Điều
273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 166, Điều 357 và khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
3
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Văn C đối với ông Đào
Văn N.
Buộc ông Đào Văn N phải trả cho ông Đoàn Văn C số tiền
20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về quyền thi hành án, án phí
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 01 tháng 10 năm 2025, ông Đào Văn N kháng cáo với nội dung đề
nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
C.
Quá trình xét xử phúc thẩm tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu
cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Các đương sự không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú
Thọ phát biểu:
Về tố tụng: Từ khi thụ vụ án cho đến thời điểm trước khi Hội đồng xét
xử vào nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư Toà án án đã tuân theo
đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Các đương sự cũng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân s
về quyền hạn và trách nhiệm của mình.
Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của ông Đào Văn
N, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 28/2025/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2025 của
Toà án nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tcăn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Viện kiểm
sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Đào Văn N làm trong thời
hạn theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét
xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Đào Văn N đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Đoàn Văn C, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1]. Theo tài liệu, chứng cứ giấy viết không ghi tiêu đề (BL số 03),
được viết bằng mực xanh, trên một mặt giấy nhỏ dòng kẻ, được tách ra từ
quyển sổ của ông C với nội dung: An Hòa, ngày 11/11/2011 (Dương lịch). Tôi
Đào Văn N vay của anh C (C1) số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu chẵn).Lãi
suất 3% tháng”. Quá trình giải quyết v án, ông C cho rằng ông N vay tiền
nhưng chưa trả cả tiền gốc và lãi cho ông. Ông N xác nhận chữ ký, chữ viết
trong văn bản của ông. Ông xác nhận vay của ông C số tiền gốc
4
20.000.000đồng với lãi suất là 3%/tháng. Thời hạn vay hai bên thỏa thuận miệng
1 năm tức ngày 11/11/2012 ông phải trả đủ tiền gốc lãi cho ông C. Đến
trước ngày 11/11/2012 vài ngày, ông không nhchính xác ngày nào, ông đã
trả đầy đủ cả tiền gốc và lãi cho ông C, cụ thể: 20.000.000đồng tiền gốc; tiền lãi
từ ngày 11/11/2011 đến ngày 11/11/2012 600.000đồng/tháng ông cũng đã trả
đủ cho ông C. Tuy nhiên, ngoài lời trình bày tại phiên tòa, ông N không đưa ra
được chứng cứ tài liệu để chứng minh cho việc ông đã trả tiền vay
20.000.000đồng cho nguyên đơn. Do đó, Tòa án cấp thẩm căn cứ vào giấy
viết tay nêu trên buộc ông N phải trả cho ông C số tiền 20.000.000đồng đã vay
là có căn cứ.
[2.2]. Về lãi suất chậm trả tiền: Tại phiên tòa sơ thẩm, ông C thay đổi một
phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu ông N phải trả số tiền lãi trên số tiền nợ
gốc. Xét việc ông C thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện, đúng với
quy định của pháp luật nên được cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết là có căn
cứ.
[2.3]. Về yêu cầu tính thời hiệu giải quyết vụ án: Ông N cho rằng ông đã
trả hết nợ từ 2012, nếu ông C cho rằng chưa trả thì kể từ tháng 11/2012 cho đến
nay đã gần 13 năm tròn nên đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu ông được biết
đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Theo
Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015pháp luật quy định về hợp đồng vay tài sản
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi
đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng
số lượng, chất lượng chỉ phải trả lãi nếu thỏa thuận hoặc pháp luật quy
định. Theo quy định tại Điều 149 Bộ luật Dân sự 2015
“1. Thời hiệu thời hạn do luật quy định khi kết thúc thời hạn đó thì
phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.
Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác liên
quan.
2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời
hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra
trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng
thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ.”
Tại Điều 150 Bộ luật Dân sự 2015quy định về các loại thời hiệu:
“1. Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó
thì chủ thể được hưởng quyền dân sự.
2. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn
đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ.
5
3. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp bxâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự thời hạn chủ thể được
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của nhân, pháp nhân, lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; nếu
thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu.”
Theo đó, thời hiệu khởi kiện đòi nợ thời hạn bên cho vay nợ được
quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình bị xâm phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì bên cho vay nợ
mất quyền khởi kiện. Theo Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015thời hiệu khởi kiện để
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản là 03 năm, kể từ ngày
người quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015quy định như sau:
“Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:
...
2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.”
Như vậy, đối với trường hợp khởi kiện yêu cầu bảo vquyền sở hữu thì
không áp dụng thời hiệu khởi kiện nên việc nguyên đơn khởi kiện đòi lại số tiền
cho vay đối với bị đơn yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trong trường hợp này
sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy Tòa án cấp
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C phù hợp nên không căn cứ
chấp nhận đơn kháng cáo của ông N, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Phú Thọ có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đào Văn N người cao tuổi nên
thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 28/2025/DS-ST ngày 10
tháng 9 năm 2025 của Toà án nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ.
6
2. Về án phí: Ông Đào Văn N là người cao tuổi nên được miễn án phí theo
quy định.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- VKSND khu vực 9 - Phú Thọ;
- TAND khu vực 9 - Phú Thọ;
- Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(đã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 236/2025/DS-PT Bản án số 236/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 236/2025/DS-PT Bản án số 236/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất