Bản án số 614/2025/DS-PT ngày 15/12/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 614/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 614/2025/DS-PT ngày 15/12/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 614/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/12/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Hợp đồng thuê quyên sử dụng đất.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Văn Hùng
Các Thẩm phán: Ông Vương Minh Tâm
Bà Lê Thị Thu Hương
- Thư phiên tòa: Thị Út - TTòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Thị Kim Liên - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 12 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long tiến
hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 458/2025/TLPT-DS ngày 17
tháng 10 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2025/DS - ST ngày 11 tháng 8 năm 2025
của Tòa án nhân dân Khu vực 8 - Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 564/2025/QĐ - PT
ngày 03 tháng 11 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số: 341/QĐ PT
ngày 25 tháng 11 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: 1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1959 (có mặt)
2. Bà Bùi Thị C, sinh năm 1959 (có mặt)
Địa chỉ: ấp G, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn N, Bùi Thị C:
Luật sư Trương Ngọc S, Văn phòng L1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh V.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn N: Ông
Nguyễn Minh K - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm T tỉnh Vĩnh Long.
- Bị đơn: Ông Phạm Văn N1, sinh năm 1963 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp G, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện hợp pháp của ông Phạm Văn N1: Anh Trần D, sinh
năm 1992 (có mặt)
Địa chỉ: ấp H, xã H, tỉnh Vĩnh Long. Theo văn bản ủy quyền ngày
28/02/2025.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
Bản án số: 614/2025/DS - PT
Ngày 15 - 12 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Hồng P, sinh năm 1982 (vắng mặt)
2. Anh Nguyễn Phú Y, sinh năm 1990 (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: số A đường D khu phố C, phường T, TP Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của chị Nguyễn Hồng P, anh Nguyễn Phú Y:
Bùi Thị C, sinh năm 1959 (có mặt)
Địa chỉ: ấp G, xã A, tỉnh Vĩnh Long. Theo văn bản ủy quyền ngày
15/11/2024.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn N, bà Bùi Thị C là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn trong quá
trình quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày trình
bày: Vào năm 1997, ông có cho ông Phạm Văn N1 thuê thửa đất 287, diện tích
2.970m
2
, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp G, A, huyện B, tỉnh Bến Tre (nay là
A, tỉnh Vĩnh Long) để trồng màu với giá là 16 chỉ vàng 24k, thời hạn cho thuê là
07 năm. Đến năm 2005 ông xin gia hạn tiếp 07 năm, đến năm 2013 ông xin gia
hạn tiếp. Quá trình thuê đất, ông Phạm Văn N1 hỏi ông đào, nạo vét lại ao
nhỏ phần rộng lớn hơn một vào năm 2017 nhưng đến năm 2021 ông mới
biết ông N1 nạo ao nớ rộng năm 2020 ông hứa cho ông N1 nuôi thêm 2
năm nữa đến ngày 20/4/2023 âm lịch mới hết hợp đồng nhưng 20/4/2022 âm
lịch thì ông N1 đã trả đất cho ông ông trả vàng lại cho ông N1 xong. Ngày
21/4/2022, ông cho ông Minh C1 thuê lại phần đất này, thời hạn 01 năm với
12 triệu đồng, ông C1 chỉ làm một năm thì mãn hợp đồng. Nay ông yêu cầu
ông N1 bồi thường một cái ao lớn có khối lượng đất 4.471,2m
3
, cái ao nhỏ
khối lượng 180m
3
, đất đắp nền nhà ngày xưa của ông bị mất 100.8m
3
, tổng
cộng khối lượng 4.752m
3
; mỗi khối đất san lắp lại là 250.000đồng, thành tiền
1.188.000.000 đồng (4.752m
3
x 250.000đồng/m
3
).
Nguyên đơn Bùi Thị C trình bày: cùng ý kiến, lời trình bày
yêu cầu như ông N.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông N, C yêu cầu ông N1 bồi thường khối
lượng đất 4.377m
3
với số tiền 1.094.000.000đồng (4377m
3
x
250.000đồng/m
3
).
Anh Trần D là người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Phạm Văn N1
trình bày: Ông Phạm Văn N1 không đồng ý với yêu cầu của các nguyên đơn
ông N, C. ông N thừa nhận biết ông N1 đào ao vào năm 2019, đôi bên đã
thanh lý hợp đồng thuê đất vào năm 2022; ông N và bà C cũng đã cho người thứ
ba thuê lại phần đất này nên quyền, nghĩa vcủa ông N1 đã hết. Ông N, C
3
cho đào ao từ năm 2013, đã thừa nhận việc hai bên chấm dứt hợp đồng bản
tường thuật đề ngày 07/11/2024 của ông N đơn khởi kiện đề ngày
07/11/2024. Đồng thời, ông N cũng biết việc ông N1 đào ao từ năm 2019 tại
biên bản đối chất ngày 18/02/2025.
Tại bản án dân s thẩm số: 30/2025/DS - ST ngày 11 tháng 8 năm
2025 của Tòa án nhân dân Khu vực 8 - Vĩnh Long đã quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn N, Bùi Thị C về việc yêu
cầu ông Phạm Văn N1 phải bồi thường chi phí san lắp khối lượng đất 4.377m
3
với số tiền là 1.094.000.000đồng.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, chi phí thẩm
định, định giá quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp
luật.
Ngày 21 tháng 8 năm 2025, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, Bùi Thị
C kháng cáo bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N,
Bùi Thị C không rút yêu cầu khởi kiện, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các
đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ông Trương Ngọc S là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn cho rằng: Việc bị đơn ông Phạm Văn N1 nạo vét ao nuôi tôm không
sự thỏa thuận với nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, Bùi Thị C; ông N, C
chỉ đồng ý cho ông N1 nạo vét ao để trữ nước ngọt trồng hoa màu, nguyên đơn
bị mất khối lượng đất thịt do bị đơn nạo vét gây ra. Do đó, đnghị Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ông Nguyễn Minh K là người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn ông Nguyễn Văn N cho rằng: Bị đơn ông Phạm Văn N1 thừa nhận
có nạo vét ao của ông N, việc ông N bị mất khối lượng đất thịt là do ông N1 gây
ra; việc ông N vào năm 2022 không khởi kiện ông Nghĩa L do ông N bị bệnh.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N.
Ông Trần H người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng: Ông
Nguyễn Văn N, bà Bùi Thị C đồng ý cho ông Phạm Văn N1 nạo vét áo vào năm
2014, năm 2019 ông N, bà C cũng biết việc ông N1 nạo vét ao này nhưng không
ý kiến gì. Năm 2022, khi hai bên chấm dứt hợp đồng thì ông N, bà C cũng
đồng ý nhận đất trả vàng cho ông N1, hai đã thực hiện thanh hợp đồng
xong; sau đó ông N, C cho ông Minh C1 thuê lại phần đất này để ông C1
nuôi tôm. Nay ông N, bà C cho rằng bị mất khối lượng đất thịt khởi kiện ông
4
N1 thì ông N1 không đồng ý sau khi kết thúc hợp đồng, ông N1 đã giao đất
lại cho ông N, bà C; ông N, bà C cho lại người khác thuê, việc hiện trạng đất sau
đó thay đổi như thế nào thì ông N1 không biết; nay ông Phạm Văn N1 đồng ý hỗ
trợ cho ông N, bà C số tiền 20.000.000 đồng chi phí san lắp lại cái ao.
Ý kiến của vị Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử Thư ký đã tiến hành đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa
vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, vị Kiểm sát viên cho rằng: Hợp đồng thuê đất giữa
Nguyễn Văn N, Bùi Thị C với ông Phạm Văn N1 kết thúc năm 2022, ông N,
C đã trả vàng cho ông N1 đã nhận đất, ông N, C không ý kiến về
việc ông N1 nạo véc ao khi kết thúc hợp đồng. Sau đó ông N, C đã cho ông
Minh C1 thuê lại phần đất này làm ao nuôi tôm. Nay ông N, C cho rằng
ông N1 lấy khối lượng đất thịt của ông N, C nhưng ông N, C không
chứng cứ chứng minh. Đối với việc ông N, P1 yêu cầu thẩm định lại khối
lượng đất áo bị nạo vét không cần thiết ông N, bà C không chứng cứ
chứng minh ông N1 lấy khối lượng đất thịt của ông N, bà C trong khi đó ông
N1 cho rằng ông chỉ nạo vét để xung quanh ao chứ ông N1 không lấy khối
lượng đất thịt đi. Từ những phần ch trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn ông N, C. Tại phiên tòa hôm nay, ông
Trần D người đại diện hợp pháp của bị đơn ông N1 ý kiến ông N1 tự
nguyện hỗ trợ cho ông N, bà C 20.000.000 đồng chi phí san lắp lại cái ao, đề
nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của ông N1.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hđược xem xét tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, Bùi ThC, Hội
đồng xét xử xét thấy: Vào năm 1997, ông N, C cho ông Phạm Văn N1
thuê thửa đất 287, diện tích 2.970m
2
, tờ bản đồ số 10, tọa lạc ấp G, A, huyện
B, tỉnh Bến Tre (nay là xã A, tỉnh Vĩnh Long) để trồng màu, thời hạn cho thuê là
7 năm, giá cho thuê 16 chỉ vàng 24k, khi nào vàng thì chuộc lại đất. Sau
khi hết thời hạn thuê, ông N, bà C không có vàng để chuộc lại phần đất nên thỏa
thuận cho ông N1 tiếp tục thuê đất sử dụng đất. Quá trình thuê đất, ông N1
xin nạo vét cái ao cũ có trên đất của ông N, bà C để nuôi tôm và được ông N, bà
C đồng ý nên ông N1 đã nạo vét ao phục vụ cho việc nuôi tôm. Đến ngày
20/4/2022 ông N1 trả đất cho ông N, C ông N, C trả 16 chỉ vàng 24k
5
cho ông N1; khi nhận đất ông N, bà C không ý kiến về việc ông N1 nạo
vét ao. Sau khi ông N1 trả đất thì ông N, bà C tiếp tục cho ông Lê Minh C1 thuê
phần đất này để nuôi tôm. Như vậy, từ ngày 20/4/2022 ông N1 với ông N, C
đã thực hiện thanh lý hợp đồng cho thuê đất xong. Ông N, bà C cho rằng ông N1
lấy đi khối lượng 4.377m
3
đất thịt tại thửa 287 nhưng không có chứng cứ chứng
minh trong khi đó ông N1 cho rằng ông N1 chỉ nạo vét để đất xung quanh ao
chứ ông N1 không lấy khối lượng đất thịt đi. Tòa án cấp thẩm cũng xác
minh thể hiện đường vào thửa đất số 287 không có xe chuyển chở vào được đất,
chỉ xe gắn máy chạy vào phải đi nhờ qua nhiều thửa đất nữa mới đến được
đất của ông N, bà C; chính quyền địa phương cũng xác định việc ông N1 chỉ
nạo vét thức ăn thừa ra bên ngoài nhưng cũng nằm trên đất thửa số 287 của
ông N, bà C chứ không đem đi nơi khác. Do đó, kháng cáo của ông N, C
là không có cơ sở chấp nhận.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Võ Trần Dngười đại diện hợp
pháp của bị đơn ông Phạm Văn N1 ý kiến ông N1 tnguyện htrợ cho ông
N, C số tiền 20.000.000 đồng chi phí san lắp lại cái ao, Hội đồng xét xghi
nhận sự tự nguyện này của ông N1.
[3] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
ông Nguyễn Văn N, bà Bùi Thị C, như phân tích phần trên, Hội đồng xét x
xét thấy không có cơ sở chấp nhận.
[4] Xét ý kiến của vị Kiểm sát viên, như phân tích phần trên, Hội đồng
xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do ông Nguyễn Văn N, Bùi Thị C là
người cao tuổi, đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí cho ông N,
C.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, Bùi
Thị C.
Sữa bản án dân sự sơ thẩm số: 30/2025/DS - ST ngày 11 tháng 8 năm 2025
của Tòa án nhân dân Khu vực 8 - Vĩnh Long.
Áp dụng các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Áp dng Ngh quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 ca Ủy ban Thường v Quc hội quy định v mc thu, min, gim, thu,
np, qun lý và s dng án phí và l phí Tòa án;
6
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N,
Bùi Thị C yêu cầu bị đơn ông Phạm Văn N1 phải bồi thường khối lượng đất
san lắp 4.377m
3
với số tiền là 1.094.000.000đồng.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Phạm Văn N1 hỗ trợ cho ông Nguyễn
Văn N, bà Bùi Thị C số tiền 20.000.000 đồng chi phí san lắp cái ao.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên
được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tướng ứng với thời
gian chưa thi hành án.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho
ông Nguyễn Văn N, bà Bùi Thị C.
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị, không bị cải sửa có hiệu lục pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a,
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Vĩnh Long; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND Khu vực 8 - Vĩnh Long;
- Phòng THADS Khu vực 8 - Vĩnh Long;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, TDS.
Đặng Văn Hùng
Tải về
Bản án số 614/2025/DS-PT Bản án số 614/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 614/2025/DS-PT Bản án số 614/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất