Bản án số 23/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Yên Bái về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 23/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 23/2024/DS-PT ngày 12/12/2024 của TAND tỉnh Yên Bái về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Yên Bái
Số hiệu: 23/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa anh G và công ty BH
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH YÊN BÁI
Bản án số: 23/2024/DS-PT
Ngày 12-12-2024
V/v Tranh chấp Hợp đồng Bảo hiểm
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t: Bà Hoàng Hải Anh
Các Thẩm phán: - Ông Phạm Hồng Quân;
- Bà Nguyễn Thị Vân
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hoan - Thư ký viên chính.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị
Bích Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 12 m 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái mở phiên
toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 25/2024/TLPT-DS ngày 21
tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp Hợp đồng Bảo hiểm”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 20/2024/QĐXX-PT ngày
11 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Long G, sinh năm 1984.
Địa chỉ: Số nhà C, đường L, tổ C, phường N, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.
mặt.
2. Bị đơn: Tổng công ty B1 (viết tắt là Bảo hiểm B1).
Địa chỉ: Số G, L, phường P, quận H, thành phố Hà Nội.
2.1. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hồng T - Quyền Tổng Giám
đốc Bảo hiểm B1.
2.2. Người đại diện theo ủy quyền:
2.2.1. Bà Vũ Thu T1 - Phó Giám đốc Ban kiểm soát tuân thủ - Pháp chế, Bảo
hiểm B1. Có mặt.
2.2.2. Ông Nguyễn Văn L - Phó Giám đốc phụ trách Công ty B1. Vắng mặt.
2.2.3. Ông Anh Q - Tổ trưởng, Ban giải quyết quyền lợi bảo hiểm, Bảo
hiểm B1. Có mặt.
2.2.4. Nguyễn Thị Phương T2 - Chuyên viên Ban kiểm soát tuân thủ - Pháp
chế, Bảo hiểm B1. Vắng mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Thanh Kim H; sinh năm
1983. Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Yên Bái.
Người kháng cáo: Bảo hiểm Bảo V là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án thẩm nguyên đơn - ông Nguyễn Long G trình bày: Từ cuối năm
2022, ông tự nguyện mua bảo hiểm sức khỏe cho bản thân của Bảo hiểm B1 bằng
các Hợp đồng bảo hiểm (viết tắt là HĐBH) sức khỏe, với chương trình bảo hiểm
chính là: Kim C, gồm: B1 số: YBA.D02.BVL.22.HD89 ngày 01-12-2022 (viết tắt
số YBA.D02.BVL.22.HD89) do đại diện Công ty B1 là ông Nguyễn Văn L ký,
ngày chấp nhận bảo hiểm 01-12-2022, thời hạn bảo hiểm từ ngày 01-12-2022 đến
ngày 30-11-2023. Trong quá trình thực hiện hợp đồng này, ông có mắc một số bệnh
phải điều trđều đã được Bảo Việt chi trả đầy đủ, không có tranh chấp gì. Tháng
8-2023, ông điều trị bệnh đau thần kinh tọa trái do thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt
lưng (lần 1) tại Bệnh viện Đ, ông không đề nghị thanh toán bảo hiểm ông xác định
bệnh đau thần kinh tọa trái do thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt lưng là bệnh hệ xương,
cơ, khớp thuộc bệnh đặc biệt trong quy tắc bảo hiểm và được chi trả từ năm thứ hai
tham gia bảo hiểm liên tục.
Ngày 30-11-2023 ông HĐBH Bảo Việt An Gia số B1.D02.BVL.23. HD69
(Viết tắt: số YBA.D02.BVL.23.HD69) Công ty B1 do ông Nguyễn Văn L ký,
ngày chấp nhận bảo hiểm 30-11-2023, thời hạn bảo hiểm từ ngày 01-12-2023 đến
ngày 30-11-2024. Đây là hợp đồng ký theo cơ chế tái tục.
Tháng 1/2024, ông tiếp tục điều trị nội tvề bệnh Đau thần kinh tọa trái do
thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt lưng (bệnh chính phải chữa trị) tại Bệnh viện Đ (lần
2). Thời gian điều trị từ ngày 04-01-2024 đến ngày 16-01-2024, với số tiền phải
thanh toán là 71.680.000 đồng
Ngày 21-01-2024, ông gửi giấy yêu cầu bồi thường sự kiện bảo hiểm cho Bảo
hiểm B1 để yêu cầu thanh toán số tiền 71.680.000 đồng ông đã phải trả cho đợt điều
trị bệnh lần 2. Bảo hiểm Bảo V đã nhận và yêu cầu ông bổ sung chứng từ vào ngày
24-02-2024, tháng 4-2024 Bảo V đã tchối bồi thường với do: Khách hàng
khai chưa đầy đủ bệnh đã từng khám, điều trị trước khi tham gia bảo hiểm trên Giấy
yêu cầu bảo hiểm ngày 01-12-2022.
Ngày 15-4-2024, ông khiếu nại thông báo từ chối bồi thường về Cục Q1 và
được trả lời với nội dung yêu cầu Bảo hiểm B1 giải quyết quyền lợi cho ông nhưng
Bảo hiểm B1 vẫn không giải quyết.
Đối với việc khai giấy yêu cầu bảo hiểm ngày 01-12-2022, tại mục kê khai
tình trạng sức khỏe bao gồm 03 câu hỏi, trong đó câu hỏi số 1 và số 2 liên quan trực
tiếp đến tình trạng sức khỏe của người yêu cầu bảo hiểm. Ông đã được đọc và thực
hiện việc kê khai về mặt nội dung. Cả 03 câu trả lời ông đều trả lờikhông”. Lý do,
tại thời điểm đó ông không mắc bệnh nghiêm trọng, chỉ bị viêm họng nhẹ cũng
không điều trị tại bệnh viện H1 hoặc bất cứ sở y tế nào nên ông đã trả lời không”.
Việc ông không khai về các lần điều trị trước đó do ông không hiểu biết về y
tế, hoàn toàn không ý định lừa dối, che giấu thông tin khi kê khai tình trạng sức
khỏe nhằm mục đích gì khác.
Ông yêu cầu Bảo hiểm B1 phải thanh toán số tiền ông đã phải trả cho đợt điều
trị bệnh lần 2 tại Bệnh viện Đ, trong tổng số tiền ông chi phí chữa bệnh lần 2 có
thuốc huyết áp, trong lịch sử bệnh của ông bệnh huyết áp nên ông chỉ yêu cầu
Bảo hiểm Bảo V thanh toán cho ông các khoản tiền sau: Tiền khám bệnh ban đầu là
690.000 đồng; tiền điều trị nội trú 68.582.800 đồng; tiền thuốc sau điều trị tại
viện 1.685.525 đồng. Tổng cộng 70.958.325 đồng, làm tròn 70.900.000 đồng. Ngoài
ra ông không có yêu cầu, đề nghị gì khác.
Bị đơn - Bảo hiểm B1 trình bày: Về thời gian, địa điểm, nội dung ký kết, thực
hiện các HĐBH Bảo Việt An Gia giữa Bảo hiểm B1 với ông Nguyễn Long G như
ông G đã trình bày là đúng.
Ngày 21-01-2024, Bảo hiểm B1 nhận được Giấy yêu cầu bồi thường sự kiện
bảo hiểm của ông G yêu cầu thanh toán số tiền 71.680.000 đồng cho đợt điều trị
bệnh tại Bệnh viện Đ từ ngày 04 đến ngày 16-01-2024, Bảo hiểm B1 đã yêu cầu ông
G bổ sung chứng từ vào ngày 24-02-2024 nhưng ông G không thực hiện.
Đối với HĐBH sức khỏe thì Bảo hiểm Bảo V không bắt buộc phải khám bệnh
cho người yêu cầu bảo hiểm trước khi ký kết hợp đồng căn cứ vào khai của
người yêu cầu bảo hiểm trên Giấy yêu cầu bảo hiểm. Tuy nhiên, theo các tài liệu,
chứng cứ thhiện: Trong năm 2021, ông L1 03 lần điều trị về các bệnh: Vết
thương hở ở khuỷu tay phải do n- Tăng huyết áp; chấn thương cột sống thắt lưng
do ngã và cơn tăng huyết áp - Rối loạn tuần hoàn não. Nhưng ông G không kê khai,
đều trả lời không đối với các câu hỏi về tình trạng sức khỏe lịch sử khám, chữa
bệnh trên Giấy yêu cầu bảo hiểm ngày 01-12-2022. Thể hiện ông G khai không
trung thực. Đau thần kinh tọa trái do thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt lưng là bệnh đã
được hình thành từ trước, ông G không khai nên Bảo V tchối yêu cầu bồi thường
của ông G. Đối với tổng số tiền ông G yêu cầu thanh toán là 71.680.000đ, trong đó
thuốc điều trị bệnh huyết áp, Tổng công ty T3 thanh toán lịch sử bệnh (năm
2021) của ông G có bệnh tăng huyết áp.
Trường hợp, chấp nhận yêu cầu bồi thường thì trên sở nguyên tắc bồi
thường được quy định tại khoản 33, khoản 50 mục I Phần I; Mục IV; Phần V Quy
tắc B1; khoản 3 Điều 16 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022, ông G xác nhận đã
được Công ty B2 (B2) chi trả số tiền 38.607.911 đồng cho sự kiện bảo hiểm này nên
Tổng công ty B1 chỉ chấp nhận chi trả cho ông G số tiền là: 70.900.000 đồng-
38.607.911 đồng = 32.292.089 đồng và áp dụng nguyên tắc đồng chi trả Bảo hiểm
Bảo V chỉ chấp nhận chi trả cho ông G 70% trong tổng số tiền 32.292.089 đồng là:
32.292.089 đồng x 70% = 22.604.462 đồng.
Do vậy, Bảo hiểm B1 từ chối chi trả tiền bảo hiểm đối với yêu cầu bồi thường
của ông Nguyễn Long G vì ông G đã không kê khai trung thực đầy đủ các nội dung
trong Giấy yêu cầu bảo hiểm của Bảo hiểm B1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Lê Thanh Kim H trình bày: Bà là
vấn viên, người trực tiếp vấn cho ông G khi kết HĐBH năm 2022, ông G
đã nghiên cứu gói sản phẩm, tự lựa chọn chương trình bảo hiểm, nội dung của Quy
tắc bảo hiểm B1 Tại phần khai tình trạng sức khỏe của Giấy yêu cầu bảo hiểm
ngày 01-11-2022 gồm 03 câu hỏi, trong đó câu hỏi số 1 và câu hỏi số 2 là câu hỏi
liên quan trực tiếp đến sức khỏe của người yêu cầu bảo hiểm. Cả 03 câu hỏi trên bà
đều đãvấn đầy đủ và ông G là người thực hiện việc kê khai về mặt nội dung. Sau
đó ông G gửi giấy tờ, giấy chứng minh nhân dân cho bà và chụp cho bà mẫu chữ ký
của ông G, gửi qua Z cho bà để bà nộp về công ty và ông G tự nguyện tham gia gói
bảo hiểm sức khỏe, ký các HĐBH sức khỏe như ông G đã trình bày. Bà cam kết đã
thực hiện đúng, đủ, trung thực nhiệm vụ của tư vấn bảo hiểm.
* Tại Bản án sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Yên Bái đã quyết định: Căn cứ Điều 147; Điều 227; Điều 271;
Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ Điều 398; Điều 401; khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự; Căn cứ Điều 12; Điều 13; Điều 14; Điều 15; điểm c khoản 2 Điều
17; điểm d khoản 1 Điều 18; khoản 2 Điều 33 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000,
được sửa đổi bổ sung năm 2019;Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Long G về việc “Tranh chấp
HĐBH”.
- Buộc Tổng công ty B1 phải thanh toán cho ông Nguyễn Long G số tiền bảo
hiểm là Buộc Tổng công ty B1 phải thanh toán cho ông Nguyễn Long G số tiền bảo
hiểm là 70.900.000 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật, ông Nguyễn Long G
đơn yêu cầu thi hành án, nếu Tổng Công ty B1 chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán
thì còn phải trả lãi, theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên án phí, quyền kháng cáo và biện pháp thi hành
án của các đương sự.
* Ngày 11-9-2024 Bảo hiểm B1 kháng cáo, ngày 24-9-2024 ngày 30-9-2024
kháng cáo sửa đổi bổ sung, kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, đề nghị Toà án cấp
phúc thẩm xem xét các vấn đề sau:
- Toà án cấp sơ thẩm áp dụng Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi bổ
sung năm 2019 để giải quyết vụ án không phù hợp, đề nghị áp dụng Luật kinh
doanh bảo hiểmm 2022.
- Quá trình tham gia bảo hiểm nêu trên ông Nguyễn Long G đã kê khai không
trung thực tình trạng sức khoẻ của bản thân nên thuộc trường hợp loại trừ bảo hiểm,
do vi phạm thoả thuận của HĐBH nên Bảo hiểm Bảo V từ chối chi trả bảo hiểm.
- Đề nghị áp dụng quy định về “Bảo hiểm trùng” vì cùng mt gói bảo hiểm An
Gia (Bảo hiểm về sức khoẻ), cùng nội dung bảo hiểm ông Nguyễn Long G đã song
song ký kết hai HĐBH (01 gói bảo hiểm ký kết với Bảo hiểm B1, 01 gói ký kết với
Công ty B2), A đã thanh toán cho ông G số tiền 38.607.911 đồng đối với lần điều tr
trên. Do vậy phạm vi bồi thường bảo hiểm của bảo hiểm B1 là 32.292.089 đồng, áp
dụng thoả thuận đồng chi trả theo tỷ lệ 70/30 như đã thoả thuận tại HĐBH, cụ thể
Bảo hiểm B1 chi trả 22.604.462 đồng.
Vì vậy đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự thẩm nói trên theo
đúng quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho Tổng công ty B1.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn, ông Nguyễn Long G vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày
tại cấp thẩm, không chấp nhận do kháng cáo của Bảo hiểm B1, đề nghị cấp
phúc thẩm giữ nguyên như bản án sơ thẩm.
- Bị đơn, Bảo hiểm B việt giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Toà án cấp
phúc thẩm áp dụng Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 để giải quyết vụ án, trong
đó nguyên tắc “trung thực tuyệt đối” đã được luật hóa để sửa Bản án thẩm số
13/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái,
tỉnh Yên Bái.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên tòa phát biểu ý
kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa
đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chấp
hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo được nộp trong
thời hạn luật định, đủ điều kiện xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng bản
án sơ thẩm có căn cứ, giải quyết đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng
xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 giữ nguyên bản án sơ thẩm. Không chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của bị đơn.
Về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà và kết
quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]Đơn kháng cáo của Bảo hiểm B1 nộp trong thời hạn luật định phù hợp với
quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 Bộ luật Ttụng Dân sự
nên Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[1.2]. Quan hệ tranh chấp thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn
ông Nguyễn Long G khởi kiện Bảo hiểm B1 tại Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái,
tỉnh Yên Bái, yêu cầu thanh toán tiền bảo hiểm là nơi hợp đồng được thực hiện. Do
vậy, tranh chấp trong ván được xác định là “Tranh chấp HĐBH” theo quy định tại
khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35; điểm b, g khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên thụ lý, giải quyết vụ án
là đúng quan hệ tranh chấp và đúng thẩm quyền.
[1.3]. Tại phiên tòa phúc thẩm: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đơn
đề nghị xét xử vắng mặt, 02 người được ủy quyền của bị đơn: ông Nguyễn Văn L,
Nguyễn Thị Phương T2 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Xét nội dung kháng cáo của Tổng công ty B1:
[3.1]. Đối với nội dung cho rằng việc Toà án cấp thẩm áp dụng Luật kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2019) chưa phù hợp với quy của
pháp luật. Bởi lẽ HĐBH YBA.D02.BVL.23.HD69 ngày 30-11-2023, thời điểm
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 đang hiệu lực thi hành, do vậy tranh chấp
HĐBH nêu trên phải áp dụng Luật năm 2022 để xử lý vụ việc. Xét thấy:
B1 số: YBA.D02.BVL.23.HD69 (HĐBH thứ hai) hiện đang tranh chấp
HĐBH tái tục, thời hạn bảo hiểm được thực hiện liền kề, liên tục, kế thừa nội dung
bảo hiểm của HĐBH số: YBA.D02.BVL.22.HD89 (HĐBH thứ nhất) khi hợp đồng
thứ nhất hết hạn. HĐBH B việt An Gia thứ nhất ngày 01-12-2022 thời điểm
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (Sửa đổi bổ sung năm 2019) đang có hiệu lực
thi hành, khi đó Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 chưa có hiệu lực. Do đó, Toà
án cấp thẩm áp dụng Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi bổ sung
năm 2019 để giải quyết tranh chấp nói trên đúng quy định của pháp luật về hiệu
lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp của Luật kinh doanh bảo hiểm.
[3.2]. Đối với nội dung ông G khai không trung thực tình trạng sức khoẻ.
Hội đồng xét xử thấy:
Việc ông G trả lời câu hỏi của mục khai sức khỏe của Giấy yêu cầu bảo hiểm
B1 ngày 01-12-2022 chưa đầy đủ. Tuy nhiên, trong số các bệnh được liệt câu
hỏi số 2 không bệnh đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
(bệnh đang được yêu cầu bảo hiểm). Hồ bệnh án của ông G đối với 03 lần điều
trị thể hiện không có lần nào ông G điều trị bệnh “Đau thần kinh tọa trái do thoát vị
đĩa đệm đốt sống thắt lưng”; các lần điều trị trên, không bệnh nào là nguyên nhân
gây ra bệnh Đau thần kinh tọa trái do thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt lưng. Như vậy,
bệnh Đau thần kinh tọa trái do thoát vị đĩa đệm đốt sống thắt lưng không liên quan
trực tiếp đến thông tin mà ông G không kê khai.
Theo quy định tại Điều 36 Phần IV Các điểm loại trừ chung của Quy tắc bảo
hiểm B1 thì bệnh lý ông G yêu cầu thanh toán là bệnh thuộc hệ cơ, xương khớp,
thuộc điều kiện được hưởng quyền lợi bảo hiểm và không thuộc trường hợp từ chối
trả tiền bảo hiểm, không trả tiền bảo hiểm theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 17
khoản 1 Điều 39 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi bổ sung năm
2019. Bảo hiểm Bảo V từ chối việc chi trả bảo hiểm cho ông G là chưa đủ cơ sở, trái
với các thỏa thuận mà hai bên đã ký kết, vi phạm khoản 1 Điều 12; điểm c khoản 2
Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi bổ sung năm 2019. Do
đó nhận định của Toà án cấp sơ thẩm đối với nội dung này là phù hợp.
[3.3]. Đối với nội dung kháng cáo của Bảo hiểm B1 áp dụng quy định về “Bảo
hiểm trùng”, áp dụng thoả thuận đồng chi trả theo tỷ lệ 70/30 (Bảo hiểm B1 chi trả
70% số tiền ông Nguyễn Long G chi trả 30% số tiền còn lại), cụ thBảo hiểm
Bảo V chi trả 22.604.462 đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại Điều 44 về “Bảo hiểm trùng" thuộc
“Mục 3: Hợp đồng bảo hiểm tài sản” tại “Chương 2 Hợp đồng bảo hiểm” của Luật
kinh doanh bảo hiểm thì: Đối tượng của HĐBH này là tài sản hoặc trách nhiệm dân
sự, không áp dụng với HĐBH đối tượng con người (Bảo hiểm nhân thọ),
quy định “Bảo hiểm trùng” tại mục IV “Bảo hiểm trùng và bảo hiểm khác” trong
Quy tắc bảo hiểm B1 trái với Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi
bổ sung năm 2019. Do đó, nội dung kháng cáo này của Bảo hiểm B1 là không có cơ sở
để chấp nhận.
[4]. Từ những phân ch nêu trên cho thấy bản án thẩm đã nhận định phù
hợp, áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết ván. Tại phiên toà
phúc thẩm người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn không đưa ra được các chứng
cứ và lẽ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là căn cứ. Do đó, không có căn
cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bảo hiểm B1, cần giữ nguyên bản án
thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
[5]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp
với nhận định của Hi đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn, Bảo
hiểm Bảo V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Bảo hiểm B1. Giữ nguyên bản án
dân sự thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 30-8-2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Yên Bái, tỉnh Yên Bái, như sau:
Căn cứ Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn
cứ Điều 398; Điều 401; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự; Căn cứ Điều 12; Điều 13;
Điều 14; Điều 15; điểm c khoản 2 Điều 17; điểm d khoản 1 Điều 18; khoản 2 Điều
33 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi bổ sung năm 2019; Căn cứ
khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án:
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Long G về việc “Tranh
chấp Hợp đồng bảo hiểm”.
1.2. Buộc Bảo hiểm Bảo V phải thanh toán cho ông Nguyễn Long G số tiền bảo
hiểm là 70.900.000 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật, ông Nguyễn Long G
đơn yêu cầu thi hành án, nếu Bảo hiểm Bảo V chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán
thì còn phải trả lãi, theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
1.3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bảo hiểm B1 phải chịu 3.545.000 (ba triệu năm trăm bốn mươi lăm nghìn)
đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Long G không phải chịu án phí dân sự thẩm, được hoàn lại
1.792.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Yên Bái, tỉnh Yên Bái theo biên lai số AA/2023/0000301 ngày 03-5-2024.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bảo hiểm Bảo V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số: AA/2024/
0001107 ngày 15/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh
Yên Bái. Bảo hiểm Bảo V đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yên cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án
dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ GĐKT2-TAND Tối cao;
- VKSND tỉnh Yên Bái;
- TAND Tp Yên Bái;
- Chi cục THADS Tp Yên Bái;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Hoàng Hải Anh
Tải về
Bản án số 23/2024/DS-PT Bản án số 23/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 23/2024/DS-PT Bản án số 23/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất