Bản án số 226/2019/HNGĐ-ST ngày 20/09/2019 của TAND TP. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang về tranh chấp ly hôn, nuôi con
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 226/2019/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 226/2019/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 226/2019/HNGĐ-ST ngày 20/09/2019 của TAND TP. Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang về tranh chấp ly hôn, nuôi con |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Vị Thanh (TAND tỉnh Hậu Giang) |
Số hiệu: | 226/2019/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/09/2019 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ly hôn, nuôi con |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 226/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 20 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 141/ 2019 /TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số: 89/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng Th.
Địa chỉ: khu vực 4, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Văn T.
Địa chỉ: khu vực 1, phường III, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 25/3/2019 và quá trình thu thập chứng cứ, nguyên đơn chị Trần Thị Hồng Th trình bày: Chị và anh Phạm Văn T chung sống với nhau từ năm 2010, cho tới nay không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, từ năm 2015 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân: do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong công việc, luôn bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, chồng đã có lần dùng bạo lực với chị. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 10/2018 cho tới nay. Nay xét tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu ly hôn với chồng là anh Phạm Văn T.
Con chung: vợ chồng có hai đứa con chung tên Trần Hồng Lỉnh (giới tính: Nam), sinh ngày 19/10/2010 và Trần Thị Hồng Phúc (giới tính: Nữ), sinh ngày 31/7/2016. Hai cháu hiện nay đang sống chung với mẹ. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung: tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết. Nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.
Quá trình thu thập chứng cứ bị đơn anh Phạm Văn T đã được Toà án thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng anh T không đến dự, nên chưa thể hiện ý kiến về việc tranh chấp.
Tại phiên toà chị Trần Thị Hồng Th trình bày giữ như lời khai và yêu cầu trước đây. Bị đơn anh Phạm Văn T vẫn vắng mặt nên không phát biểu yêu cầu.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà:
- Về tố tụng. Việc thu thập chứng cứ từ khi thụ lý vụ án của Thẩm phán, mở và điều khiển phiên toà của Hội đồng xét xử, của Thư ký phiên tòa tại phiên toà là tuân thủ đúng pháp luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng và đầy đủ; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không lý do là không chấp hành đúng pháp luật.
- Về nội dung. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Không công nhận chị Trần Thị Hồng Th và anh Phạm Văn T có quan hệ vợ chồng. Giao hai cháu Lỉnh, Phúc cho chị Th nuôi dưỡng. Buộc chị Th chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, Toà xác định quan hệ pháp luật tranh chấp cần phải giải quyết trong vụ án là “tranh chấp về ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn trong vụ án là anh Phạm Văn T có nơi cư trú tại khu vực 1, phường III, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Theo quy định tại các điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
[3]. Về xét xử vắng mặt: Anh Phạm Văn T là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hồng Th và anh Phạm Văn T chung sống với nhau từ năm 2010, cho tới nay không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, tới năm 2015 phát sinh mâu thuẫn, chị Th xin ly hôn, anh T chưa thể hiện ý kiến. Toà xét thấy: Chị Th, anh T có thời gian chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, mặc dù đủ điều kiện nhưng anh chị không đi đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình, nên việc chung sống của anh chị không được công nhận hợp pháp từ thời điểm chung sống cho đến nay. Do đó yêu cầu xin ly hôn của chị không có căn cứ chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình Toà không công nhận chị Trần Thị Hồng Th và anh Phạm Văn T là vợ chồng.
[5]. Về con: Theo chị Th khai, quá trình chung sống với anh T chị và anh T có chung hai đứa con tên Trần Hồng Lỉnh (giới tính: Nam), sinh ngày 19/10/2010 và Trần Thị Hồng Phúc (giới tính: Nữ), sinh ngày 31/7/2016. Anh T từ khi Tòa thụ lý vụ án đến nay chưa thể hiện ý kiến xác nhận hai cháu có phải là con chung của anh và chị Th. Theo giấy khai sinh của cháu Lĩnh và cháu Phúc thì họ tên cha để trống (chưa xác định), chị Th ngoài lời khai của chị ra chị không có chứng cứ nào chứng minh hai cháu Lĩnh, Phúc là con chung của chị với anh T, nên Tòa chưa xem xét xác định hai cháu Trần Hồng Lỉnh và Trần Thị Hồng Phúc là con ruột của anh Phạm Văn T. Tiếp tục giao hai cháu Lỉnh, Phúc cho chị Trần Thị Hồng Th trực tiếp nuôi dưỡng. Phần xác định cha cho con khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[6]. Về tài sản, nợ chung: Chị Th khai không yêu cầu giải quyết, anh T chưa ý kiến, nên Tòa không xem xét giải quyết trong cùng vụ án.
[7]. Về án phí: căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Buộc chị Th có trách nhiệm chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo mức không có giá ngạch.
[8]. Đối với phát biểu quan điểm về tố tụng và đề nghị về nội dung giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà. Hội đồng xét xử thống nhất và chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 35. 39, 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Hồng Th.
- Về hôn nhân: Không công nhận chị Trần Thị Hồng Th và anh Phạm Văn T có quan hệ vợ chồng.
- Về con: Giao hai cháu Trần Hồng Lỉnh (giới tính: Nam), sinh ngày 19/10/2010 và Trần Thị Hồng Phúc (giới tính: Nữ), sinh ngày 31/7/2016 cho chị Trần Thị Hồng Th được trực tiếp nuôi dưỡng. Tách việc giải quyết xác định cha cho hai cháu Trần Hồng Lỉnh và Trần Thị Hồng Phúc thành một vụ án khác khi có yêu cầu.
- Về tài sản, nợ chung: chưa xem xét giải quyết trong cùng vụ án, do chưa có yêu cầu.
- Về án phí: Buộc chị Trần Thị Hồng Th chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp theo biên lai thu số 0020425 ngày 20/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh thành án phí. Chị Th không phải nộp thêm.
- Quyền kháng cáo: các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!