Bản án số 224/2020/DS-PT ngày 10/07/2020 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 224/2020/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 224/2020/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 224/2020/DS-PT ngày 10/07/2020 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 224/2020/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/07/2020 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thu Thủy;
Các Thẩm phán: Ông Trần Xuân Minh;
Ông Nguyễn Văn Hùng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Thái Lê Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Kim Đoạn - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
571/2019/TLPT-DS ngày 01 tháng 11 năm 2019 về việc “Tranh chấp di sản thừa
kế”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2019/DS-ST ngày 27 tháng 2 năm 2019
của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1094/2020/QĐ-PT
ngày 18 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1942.
Địa chỉ: E A W G SA 5012, Australia.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1983. (có mặt)
Địa chỉ: đường Tr, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Địch Th, sinh năm 1952. (chết năm 2015)
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn:
1/. Bà Hồ Thị Việt A, sinh năm 1952. (có mặt)
2/. Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1984. (có mặt)
Cùng địa chỉ: đường Tr1, Phường 1, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 224/2020/DS-PT
Ngày 10 - 7 - 2020
V/v Tranh chấp di sản thừa kế.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

2
Địa chỉ liên lạc: đường C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3/. Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1981. (có mặt)
Địa chỉ: đường Đ, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ liên lạc: đường C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà O: Luật sư Lý Quang Ph –
Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
4/. Ông Nguyễn Anh T1, sinh năm 1986. (có mặt)
Địa chỉ: đường Tr1, Phường 1, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ liên lạc: đường Ng, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/. Bà Hồ Thị Việt A, sinh năm 1952. (có mặt)
2/. Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1984. (có mặt)
Cùng địa chỉ: đường Tr1, Phường 1, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ liên lạc: đường C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3/. Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1981. (có mặt)
Địa chỉ: đường Đ, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ liên lạc: đường C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4/. Ông Nguyễn Anh T1, sinh năm 1986. (có mặt)
Địa chỉ: đường Tr1, Phường 1, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ liên lạc: đường Ng, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu.
5/. Ông Nguyễn Địch Th1, sinh năm 1940. (vắng mặt)
Địa chỉ: H S A A2 H C. 06106.1030 USA.
6/. Bệnh viện L (vắng mặt)
Địa chỉ: đường L, Phường 1, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Người kháng cáo: Ông Bùi Văn H – đại diện nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th trình bày:
Về gia tộc: Ông Nguyễn Địch Th2, bà Lê Thị Ch (đã chết) sinh được 04
người con gồm: Bà Nguyễn Thị A1 (Nguyễn Mộng A1), ông Nguyễn Địch Th,
ông Nguyễn Địch Th1 và bà Nguyễn Thị Th. Bà Nguyễn Mộng A1 sống độc
thân, không chồng con và đã qua đời vào ngày 11/11/2004, không để lại di chúc.

3
Về di sản: Sinh thời bà A1 có tạo lập được khối tài sản là 02 căn nhà số
128-130 (số cũ 94-96) trên diện tích đất ở là 234m
2
thuộc thửa số 154, tờ bản đồ
số 04 tọa lạc tại C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhà đất đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 31015 do Ủy ban nhân dân
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 08/10/1993 đứng tên Nguyễn Thị A1. Căn nhà
số 130 thì hiện vẫn như cũ không có sửa chữa gì từ khi bà A1 mất. Còn căn nhà
số 128 thì ông Th đã sửa lại nhà khang trang hơn, sửa như thế nào hết bao nhiêu
thì bà Th không biết.
Cha mẹ bà Th là ông Nguyễn Địch Th2 chết năm 1955, bà Lê Thị Ch chết
năm 1980. Hàng thừa kế thứ nhất không có ai, anh chị em ruột của bà A1 là
hàng thừa kế thứ hai được hưởng di sản của bà A1 để lại. Các anh chị em bà Th
không thỏa thuận được việc chia di sản của bà A1, ông Th muốn hưởng hết di
sản nên bà Th yêu cầu chia di sản trên làm 03 kỷ phần cho ba anh chị em mỗi
người hưởng một phần.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Bùi Văn H đại diện ủy quyền của bà Th đồng ý
giá trị di sản là 1,8 tỷ đồng và chia cho bà Th theo giá trị; còn giá trị nhà thì
không lớn và bên bị đơn hưởng nên đồng ý với ý kiến của bị đơn về công sức,
giữ gìn di sản.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn trình bày:
- Bà Nguyễn Thị Kim O trình bày: Bà là con ruột ông Th, ông bà nội đã
chết từ lâu. Mẹ bà là bà Hồ Thị Việt A. Cha mẹ bà có 03 người con gồm bà và
các em là Nguyễn Minh T, Nguyễn Anh T1. Ngoài ra cha mẹ bà không có con
nuôi, con riêng nào khác. Về hai căn nhà 128-130 (số cũ 94-96) trên diện tích
đất ở là 234m
2
thuộc thửa số 154, tờ bản đồ số 04 tọa lạc tại C, Phường 4, thành
phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì do bà A1 cất, nhưng sau đó nhà đã cũ nát nên
năm 2006 bà Ánh và bà đập bỏ nhà cũ xây dựng nhà mới một căn và bà A1 sửa
chữa lại một căn. Gia đình bà đã thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước hàng
năm và đã cùng bà A1 khiếu kiện đòi lại nhà cho thuê với bà Nguyễn Thị X năm
2004 và được Tòa án nhân dân thành phố V ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự số 28/DSST ngày 14/5/2004. Gia đình bà giữ gìn, tôn
tạo và chăm sóc hai căn nhà trên và sinh sống tại đây. Trước yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn gia đình bà sẽ cùng thỏa thuận và trình bày ý kiến sau. Tuy
nhiên trong quá trình tố tụng bà O và gia đình không có ý kiến gì.
- Bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, ông Nguyễn Anh T1 không
tham gia tố tụng nên Tòa không ghi được ý kiến.
- Tại phiên tòa bà Hồ Thị Việt A, bà Nguyễn Thị Kim O, ông Nguyễn
Minh T, ông Nguyễn Anh T1 trình bày: 02 căn nhà trên là của bà A1, gia đình
đồng ý chia thừa kế 3 phần. Do một căn nhà cấp 4 đã cũ, nát hiện giá trị không
còn, một căn gia đình xây dựng lại nên đề nghị giá trị của di sản chỉ tính giá trị
đất như trong biên bản định giá là 1,8 tỷ đồng (làm tròn số). Cả gia đình ông bà
đang sinh sống, thờ cúng tổ tiên nên xin được chia bằng hiện vật là quyền sử

4
dụng hai căn nhà và đất, các ông bà sẽ hoàn trả suất thừa kế cho bà Th, ông Thìn
bằng giá trị. Do đề nghị được nhận hiện vật nên ông bà không yêu cầu phần
công sức giữ gìn, bảo quản di sản, chi phí mai táng...
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Địch Th1 trình bày:
Bà Nguyễn Thị A1 và Nguyễn Mộng A1 là một người và là chị ruột của
ông. Cha mẹ ông đã qua đời có sinh được 4 anh chị em gồm: bà Nguyễn Mộng
A1, ông Nguyễn Địch Th, ông Nguyễn Địch Th1 và bà Nguyễn Thị Th. Bà A1
không có chồng, con. Sinh thời bà A1 làm ăn buôn bán tại đường Tr1 nên có
tiền mua hai căn nhà tại đường C, Phường 4, thành phố V. Hai căn nhà trên hiện
gia đình ông Nguyễn Địch Th đang cư ngụ.
Nay, bà Nguyễn Thị Th khởi kiện ông đề nghị Tòa án xét xử theo quy
định của pháp luật và ông xin không tham gia tố tụng.
Bệnh viện L có văn bản trình bày:
Khoảng năm 2008 Bệnh viện L có nhận được 01 văn bản của ông Nguyễn
Địch Th1, quốc tịch Hoa Kỳ có hiến tặng cho bệnh viện phần di sản được thừa
kế là một phần căn nhà ở đường C, Phường 4, thành phố V. Văn bản này được
gửi cho bệnh viện L một bản và UBND Phường 4 một bản. Về quan điểm của
bệnh viện L là nếu một phần căn nhà trên là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn
Địch Th1 hiến tặng thì bệnh viện đồng ý tiếp nhận và sử dụng đúng mục đích.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2019/DS-ST ngày 27 tháng 2 năm 2019,
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
Áp dụng các Điều 228, 479 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 631, 632,
634, 635 Bộ luật dân sự năm 2005; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH10 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuyên
xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th về việc yêu cầu
ông Nguyễn Địch Th (đã chết) những người thừa kế tố tụng là bà Hồ Thị Việt A,
ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông Nguyễn Anh T1 chia di sản
thừa kế của bà Nguyễn Thị A1 (Nguyễn Mộng A1) là quyền sử dụng đất tại số
128, 130 (số cũ 94-96) C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tài
sản trên đất.
2. Ông Nguyễn Địch Th (đã chết), những người thừa kế tố tụng của ông
Th là bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông
Nguyễn Anh T1 được quyền sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất tại số 128 -
130 (số cũ 94-96) C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tài sản
trên đất. Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 310815 do
ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 08/10/1993 đứng tên Nguyễn
Thị A1.
Bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông
Nguyễn Anh T1 có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để

5
đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất theo
quy định của pháp luật.
3. Bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông
Nguyễn Anh T1 có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Địch Th1, bà Nguyễn Thị Th
mỗi người 600.000.000 (sáu trăm triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án thì người
phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả theo lãi suất quy
định tại Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 07/3/2019, đại diện nguyên đơn ông Bùi Văn H có đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chia di sản thừa kế cho nguyên đơn bằng hiện vật, hoặc chia cho
nguyên đơn số tiền 2.000.000.000 đồng; không công nhận việc tính công sức gìn
giữ đất cho bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao phát biểu quan điểm giải quyết
vụ án:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành đúng quy định của Bộ
luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ, đúng quy định
pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét thẩm tra, kết quả hỏi,
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm
nhận định như sau:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Bùi Văn H – đại diện nguyên
đơn làm trong hạn luật định nên hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình
tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Bà Nguyễn Thị Th khởi kiện chia thừa kế đối với di sản do bà
Nguyễn Thị A1 (Nguyễn Mộng A1) chết để lại là 02 căn nhà số 128-130 (số cũ
94-96) trên diện tích đất 234m
2
, thuộc thửa 154, tờ bản đồ số 4, tọa lạc tại C,
Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

6
Các bên đương sự đều thừa nhận nhà đất nêu trên do bà Nguyễn Thị A1
chết để lại; bà A1 không có chồng con; những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của bà A1 là các anh chị em gồm Nguyễn Địch Th, Nguyễn Địch Th1 và
Nguyễn Thị Th.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Bùi Văn H – đại diện cho nguyên đơn đồng ý
giá trị nhà đất nêu trên là 1.800.000.000 đồng; đồng thời đề nghị chia di sản cho
03 người thừa kế của bà A1; trong đó bà Th được nhận giá trị bằng tiền. Trên cơ
sở đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của bị đơn phải thanh toán cho bà Th số tiền 600.000.000 đồng. Như vậy,
Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Th. Bà Th
kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm quyết định làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
bà. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của bà Th yêu cầu được chia số tiền
2.000.000.000 đồng, không đồng ý nhận số tiền 600.000.000 đồng nhưng không
nêu rõ lý do vì sao. Yêu cầu của đại diện nguyên đơn không có căn cứ. Xét thấy,
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử theo yêu cầu thỏa thuận của các đương sự, xác
định giá trị nhà đất là 1.800.000.000 đồng và chia đều cho 03 đồng thừa kế là có
căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[2.2] Bà Th kháng cáo không đồng ý với việc tính công sức giữ gìn di sản
cho bị đơn. Xét thấy, cấp sơ thẩm chia di sản làm 03 phần cho 03 người thừa kế
là ông Nguyễn Địch Th, bà Nguyễn Thị Th, ông Nguyễn Địch Th1 mỗi người
600.000.000 đồng. Như vậy, bản án sơ thẩm đã không tính công sức giữ gìn di
sản cho bị đơn.
[2.3] Về yêu cầu được nhận hiện vật: Bà Th là người định cư tại nước
ngoài, theo quy định tại Điều 159 và 160 Luật Nhà ở thì bà Th không được đứng
tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở riêng lẻ tại Việt Nam. Hơn nữa, tại
phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà Th đã đề nghị được nhận
phần di sản bằng tiền và đã được Hội đồng xét xử chấp nhận. Nay nguyên đơn
kháng cáo yêu cầu được nhận hiện vật là không có cơ sở chấp nhận.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy kháng cáo của
nguyên đơn là không có căn cứ nên không được chấp nhận; cần giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
[4] Bà Nguyễn Thị Th là người cao tuổi, được miễn án phí dân sự phúc
thẩm theo Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Văn H – người đại diện theo ủy

7
quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
04/2019/DS-ST ngày 27 tháng 2 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
Áp dụng Điều 631, 632, 634, 635 Bộ luật dân sự năm 2005; Pháp lệnh án
phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th về việc yêu cầu
ông Nguyễn Địch Th (đã chết, có những người thừa kế là bà Hồ Thị Việt A, ông
Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông Nguyễn Anh T1) chia di sản thừa
kế của bà Nguyễn Thị A1 (Nguyễn Mộng A1) là quyền sử dụng đất tại số 128,
130 (số cũ 94-96) C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tài sản
trên đất.
Ông Nguyễn Địch Th (đã chết), những người thừa kế tố tụng của ông Th
là bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông Nguyễn
Anh T1 được quyền sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất tại số 128 -130 (số cũ
94-96) C, Phường 4, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tài sản trên đất.
Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 310815 do Ủy ban
nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 08/10/1993 đứng tên Nguyễn Thị
A1.
Bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông
Nguyễn Anh T1 có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Địch Th1, bà Nguyễn Thị Th
mỗi người 600.000.000 (sáu trăm triệu) đồng.
Bà Hồ Thị Việt A, ông Nguyễn Minh T, bà Nguyễn Thị Kim O, ông
Nguyễn Anh T1 có quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng
ký và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất theo quy định của pháp luật, sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thanh
toán của bản án.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án thì người
phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả theo lãi suất quy
định tại Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán.
2/. Án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng được thực hiện theo quyết
định của bản án sơ thẩm.
3/. Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà
Nguyễn Thị Th.
4/. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8
5/. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Hùng
Trần Xuân Minh
Trần Thị Thu Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm