Bản án số 22/2025/DS-ST ngày 29/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2025/DS-ST ngày 29/05/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 3 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 22/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: [1] Tuyên xử
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CƯ M’GAR Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐĂK LĂK
Bản án số: 22/2025/DSST
Ngày 29 - 5 - 2025.
“Vv: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bế Văn Toàn.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Hoàng Duy Thanh
2. Bà Trần Thị Loan
- Thư Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Đức Đuống - Thư Tòa
án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lăk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar tham gia phiên tòa:
Trần Thị Ngọc Oanh – Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 5 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M’gar, tỉnh
Đăk Lăk, xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 158/2023/TLST - DS
ngày 09 tháng 5 năm 2023 về việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất hiệu”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
19/2025/QĐXXST - DS, ngày 06 tháng 5 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa
số 14/2025/QĐST-DS ngày 23/5/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1957.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông Q: Anh Nguyễn Đình Q1, sinh năm 1993.
(Có mặt).
Cùng địa chỉ: Số D, thôn H, xã Q, huyện C gar, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Ông Đỗ Minh H, sinh năm 1963 và Trần Thị L, sinh năm 1965.
(Vắng mặt).
Địa chỉ: E V, tổ dân phố E, thị trấn Q, huyện C, Đắk Lắk;
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Bá C, sinh năm 1977 và bà Bùi Thị N, sinh năm 1978. (Ông C
có đơn xin xét xử vắng mặt, bà N vắng mặt không có lý do).
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
2
+ Ủy ban nhân dân huyện C;
Địa chỉ: A H, thị trấn Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt).
+ Ủy ban nhân dân xã Q, huyện C;
Địa chỉ: Xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (Vắng mặt).
+ Văn phòng C3. (Vắng mặt).
Địa chỉ: C N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
+ Ông Nguyễn Anh T, sinh năm 1972 Nguyễn Thị Mỵ N1, sinh năm
1981. (Có mặt).
Địa chỉ: Số nhà E, thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk;
+ Ông Nguyễn Xuân C1, sinh năm 1957 Nguyễn Thị T1, sinh năm
1968. (Có đơn từ chối tham gia tố tụng).
Địa chỉ: Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk;
4. Người làm chứng: Ông Nguyễn Mạnh T2, sinh năm 1962.
Địa chỉ: A N, tổ dân phố C, thị trấn Q, huyện C, Đắk Lắk; (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Q
anh Nguyễn Đình Q1 trình bày:
Bố tôi ông Nguyễn Văn Q là chsử dụng của phần đất diện tích khoảng
23.120m
2
tại Q, huyện C. Trong đó, phần diện tích khoảng 19.120m
2
đã được nhà
nước công nhận quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R
437590 do UBND huyện C cấp ngày 19/12/2001. Phần diện tích khoảng 4000m
2
còn
lại chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vào năm 2007 bố mẹ tôi có
thỏa thuận sang nhượng cho vợ chồng ông Đỗ Minh H Trần Thị L một phần đất
với diện tích 4000m
2
. Lúc đó bố tôi đã mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
R 437590 nói trên tới Ủy ban nhân dân Q m hợp đồng chuyển nhượng, tách
thửa phần diện tích 4000m
2
cho vợ chồng ông H, bà L. Sau khi hoàn thành thủ tục
thì vợ chồng ông H L được Nhà nước cấp GCNQSDĐ số AK 607637 thuộc
thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24, diện tích 4000m
2
còn bố tôi được cấp GCNQSDĐ
số AK 607636 thửa đất số 25, tờ bản đồ 24, diện tích 15.120 m
2
đối với phần đất
còn lại sau khi tách thửa. Một thời gian sau, thì bố tôi phát hiện phần đất đã sang
nhượng cho vợ chồng ông H không nằm trong tổng diện tích 19.120m
2
mà bố tôi đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế đó phần diện tích chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, khi bố tôi phát hiện thì
thửa đất này vợ chồng ông H sang nhượng lại cho vợ chồng ông Nguyễn C,
Bùi Thị N. Và vợ chồng ông C đã được Ủy ban nhân dân huyện C cấp GCNQSDĐ
số BL 379921 ngày 3/1/2013. Do đó, các bên đã thống nhất để cho vợ chồng ông C
khai cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với phần đất đang sử dụng (Phần
đất nhận sang nhượng từ vợ chồng ông H), sau đó sẽ sang tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do vợ chồng ông H đã sang trước đó lại cho bố tôi. Theo đó,
3
vợ chồng ông C được công nhận sử dụng đất Chính thửa 420, tờ bản đồ số 23,
diện tích 4000m
2
. nhầm lẫn nên vợ chồng ông Q đã làm thủ tục tách thửa, sang
tên thửa 105, tờ bản đồ 24 cho vợ chồng ông H nhưng trên thực tế thửa đất này từ
trước tới nay vẫn do bố mẹ tôi ông Q, bà L1 quản lý, sử dụng. Vợ chồng ông H,
vợ chồng ông C chỉ đứng tên trên giấy tờ chứ không hề canh tác sử dụng. Thửa đất
mà họ canh tác sử dụng chính là thửa 420, tờ bản đồ số 23.
Thực tế, vào năm 2007 vợ chồng ông Q thỏa thuận sang nhượng cho vợ
chồng ông H thửa đất số 420, tờ bản đồ số 23, đất trông cây lâu năm tại Q. Thời
điểm đó, thửa đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng gia
đình ông Q lại nhầm lẫn nên đã tách sang tên thửa đất 105, tờ bản đồ số 24 cho
vợ chồng ông H. Gia đình ông Q chỉ sang nhượng cho vợ chồng ông H một thửa đất
duy nhất và đó chính là thửa đất mà về sau vợ chồng ông H sang nhượng lại cho vợ
chồng ông C. thửa đất này chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên trong qtrình sử dụng vợ chồng ông C đã khai cấp giấy chứng nhận tiếp
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 420, tờ bản đồ s23, diện tích 4000m
2
. Nhưng
sau khi ông C hoàn thành thủ tục thì lại khất lần việc sang tên cho bố tôi thửa 105.
Nhận thấy, Hợp đồng chuyển nhượng giữa bố mẹ tôi vợ chồng ông H, L do
Ủy ban nhân dân xã Q chứng thực ngày 26/12/2007 là có sự nhầm lẫn về đối tượng
của Hợp đồng, (thửa đất chuyển nhượng) tất nhiên Hợp đồng chuyển nhượng giữa
vợ chồng ông H và vợ chồng ông C cũng là nhầm lẫn về đối tượng Hợp đồng. Thửa
đất 105 vợ chồng ông C chỉ đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
thực tế người canh tác, sử dụng thửa đất từ trước đến nay vẫn là gia đình tôi. Nay vợ
chồng ông C đã được công nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận sang
nhượng từ vợ chồng ông H nhưng lại không chịu chuyển nhượng trả lại cho bố
tôi thửa 105. Hành vi của vợ chồng ông C trái với thỏa thuận giữa các bên, xâm
phạm đến quyền lợi chính đáng của gia đình tôi.
vậy, nh đề nghị Tòa án nhân dân huyện M’gar xem xét giải quyết tuyên
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cụ thể:
-Tuyên hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Văn QTrần Thị L1
bên nhận chuyển nhượng vợ chồng ông Đỗ Minh H Trần Thị L đối với thửa
đất số 105, tờ bản đồ số 24 do Ủy ban nhân dân xã Q chứng thực ngày 26/12/2007;
-Tuyên hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất được xác lập giữa
bên chuyển nhượng vợ chồng ông Đỗ Minh H, Trần Thị L bên nhận chuyển
nhượng là vợ chồng ông Nguyễn Bá C, Bùi Thị N về việc sang nhượng thửa đất
số 105, tờ bản đồ số 24 do Văn phòng C3 chứng nhận ngày 17/12/2012.
- Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BL 379921 do UBND huyện C cấp ngày 03/01/2013 thuộc thửa đất số
4
105, tờ bản đồ số 24, diện tích 4000 m
2
để cấp lại cho đúng chủ sử dụng đất là ông
Nguyễn Anh T và bà Nguyễn Thị Mỵ N1.
* Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án bị
đơn bà Trần Thị L và ông Đỗ Minh H trình bày:
Gia đình ông Q gia đình tôi thông gia với nhau, con trai tôi cưới con gái
của ông Q. o ngày 26/12/2007 vợ chồng tôi có thỏa thuận nhận sang nhượng của
vợ chồng ông Q, bà L1 một phần đất với diện tích 4000m
2
, là thửa đất số 105, tờ bản
đồ số 24, đất tọa lạc tại thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk và hai bên có lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất, hợp đồng được
UBND Q chứng thực số 184, quyển số 01 ngày 26/12/2007. Hai bên chuyển
nhương thửa đất trên với giá 150.000.000đ. Khi nhận chuyển nhượng, các bên có ra
thực địa để bàn giao đất. Tại thời điểm vợ chồng tôi nhận chuyển nhượng thì ông Q
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện tích 19.120m
2
theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 437590. Sau đó ông Q tách thửa phần diện
tích 4000m
2
cho vợ chồng tôi. Sau khi hoàn thành thủ tục thì vợ chồng tôi được Nhà
nước cấp GCNQSDĐ số AK 607637 thuộc thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24, diện
tích 4000m
2
, còn ông Q được cấp GCNQSDĐ số AK 607636 thửa đất số 25, tờ bản
đồ 24, diện tích 15.120m
2
đối với phần đất còn lại sau khi tách thửa. Về vị trí diện
tích đất được cấp trên giấy chứng nhận và vị trí diện tích đất thực tế canh tác thì vợ
chồng chúng tôi cũng không phát hiện ra diện tích đất được cấp trên giấy chứng nhận
không đúng với vị trí diện tích đất thực tế canh tác. Khi nhận chuyển nhượng thì đất
đã trồng phê, vợ chồng tôi tiếp tục trồng cây cà phê cho đến lúc chuyển nhượng
cho vợ chồng ông C, N theo hợp đồng sang nhượng cho ông Nguyễn C, bà
Bùi Thị N vào ngày 17/12/2012, Hợp đồng lập và công chứng tại Văn Phòng C3 tại
số C N, thành phố B. Số công chứng 8195, quyển số 12 ngày 17/12/2012. Khi đó hai
bên thỏa thuận gsang nhượng thửa đất số 105, tờ bản đsố 24 60.000.000 đồng.
Việc sang nhượng hoàn tất ông C, N đã được Ủy ban nhân dân huyện C cấp
GCNQSDĐ số BL 379921 ngày 3/1/2013. Nay ông Q khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên
hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa vợ chồng ông Q vợ
chồng tôi Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng tôi và v
chồng ông Nguyễn C Bùi Thị đối V thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24, thì Đề
nghị tòa án giải quyết theo quy định pháp luật chấp nhận đơn khởi kiện của ông
Q và tuyên vô hiệu 02 hợp đồng trên để nhà nước cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho đúng.
* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Người có quyền lợi, nghĩa v
liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ N2 trình bày:
Vào năm 1994 chồng tôi là anh Nguyễn Anh T đã khai hoang mnh đất khoảng
05ha thuộc thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Đến năm 2001 có chủ trương nhà
nước cấp quyền sử dụng đất do đất được khai hoang cho các hộ gia đình, với thông
tin mỗi gia đình chỉ được đứng tên quyền sử dụng đối với 02 ha đất, vậy chồng tôi
5
đã nhờ anh trai ông Nguyễn Văn Q đứng tên giùm quyền sử dụng đất gần 02 ha.
Trong thời gian anh Q sử dụng đất đã tự ý cắt bán cho ông H, bà L 4000m
2
, sau đó
ông H, L lại bán cho ông C, N thì vợ chồng tôi mới phát hiện, mảnh đất cắt
bán nằm trong diện tích đất vchồng nhà tôi đang canh tác là thửa 105, tờ bản đsố
24, diện tích 4000m
2
(Chỉ bán trên giấy tờ), hiện nay đang đứng tên quyền sử dụng
đất là ông Nguyễn Bá C và bà Bùi Thị N. Đối với thửa 25, tờ bản đồ số 24, diện tích
15.120m
2
, hiện nay vợ chồng tôi trực tiếp canh tác nhưng đứng tên quyền sử dụng
đất là ông Nguyễn Văn Q.
Nay ông Nguyễn Văn Q khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết: Tuyên hiệu
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là vợ chồng
ông Nguyễn Văn Q Trần Thị L1 bên nhận chuyển nhượng vợ chồng ông Đỗ
Minh H Trần Thị L về việc sang nhượng thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24 và Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Đỗ Minh H Trần Thị L với ông
Nguyễn C Bùi Thị N về việc sang nhượng thửa đất số 105, tờ bản đồ s24.
Đồng thời Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BL 379921 do UBND huyện C cấp ngày 03/01/2013 thuộc thửa đất
số 105, tờ bản đồ số 24, diện tích 4000 m
2
đã cấp cho ông C, bà N thì tôi đề nghị tòa
án chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn Q, để sang tên quyền sử dụng đất
lại cho vợ chồng tôi, vì vợ chồng tôi là người trực tiếp đang canh tác trên đất từ năm
1993 đến nay.
Ông Nguyễn Anh T trình bày: Tôi nhất trí với ý kiến của vợ tôi là bà Nguyễn
Thị Mỹ N2, đề nghị tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh trai tôi nguyên
đơn ông Nguyễn Văn Q.
* Quá trình giải quyết vụ án Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Bá C trình bày:
Năm 2012, vợ chồng tôi chuyển nhượng cho ông H, L diện tích đất thuộc
thửa số 105, tbản đồ số 24, toạ lạc tại thôn H, xã Q, huyện C với gchuyển nhượng
400.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng thì các bên có làm thủ tục công chứng theo
quy định (thời gian đã lâu tôi không nhớ rõ tên văn phòng công chứng). Sau khi các
bên làm thủ tục chuyển nhượng thì hiện nay con ông H đứng tên trong Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (Không xác định chính xác) và tôi không biết hiện nay ai là
người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất này.
Đối với việc nguyên đơn ông Q khởi kiện cho rằng 02 thửa đất trong đó
4000m
2
nằm trong tổng diện tích đất 19,120m
2
4000m
2
chưa được cấp giấy chứng
nhận đã được cấp cho chúng tôi không đúng. Tôi xác định tôi chỉ được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 4000m
2
diện tích đất do ông Q
chuyển nhượng cho tôi. Sau đó tôi đã chuyển nhượng diện tích đất này cho con ông
H.
6
Ngoài ra giữa tôi ông H, L không sự thoả thuận nào đối với việc
khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như nhận sang nhượng từ ông H,
bà L diện tích đất nào khác. Ngoài diện tích đất 4000m
2
tôi đã chuyển nhượng lại thì
tôi không có được cấp thêm giấy chứng nhận QSDĐ nào khác. Đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn đề nghị toà án căn cứ theo quy định để giải quyết vụ án. Ngoài
ra hiện nay vợ tôi là bà Bùi Thị N đã bỏ đi khỏi địa phương. Vợ chồng chúng tôi đã
ly thân được hơn một năm. Hiện bà N đang sinh sống tại đâu tôi không biết.
Đối với thửa đất số 420, tờ bản đồ 23, diện tích 4000m
2
tôi chưa được cấp
GCNQSDD nên không cung cấp cho toà án được.
* Quá trình giải quyết vụ án Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Xuân C1 trình bày:
Tôi mua 4 sào phê của ông Nguyễn C Bùi Thị N vào năm 2015,
địa chỉ thửa đất tại thôn H, xã Q, huyện C tứ cận: Phía Đông giáp ông Kiều C2,
Tây giáp ông Nguyễn Q, Nam giáp ông Nguyễn Mạnh H1, Bắc giáp ông Minh
H2. Diện tích đất trên đã được cấp quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Xuân C1. Tôi
mua đất của ông C, bà N với giá 80.000.000/sào, tổng cộng 320.000.000 đồng. Khi
sang nhượng đất có làm hợp đồng và được Ủy ban xã Q công chứng. Hiện tôi không
còn bản lưu hợp đồng này. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay tôi
đang thế chấp Ngân hàng C4 M’gar nên không thể cung cấp cho Toà. Hiện tôi
đang canh tác trên đất 04 sào đất này.
* Quá trình giải quyết vụ án Người làm chứng ông Nguyễn Mạnh T2 trình
bày:
Tôi em trai ruột của ông Nguyễn Văn Q là anh ruột của anh Nguyễn Anh
T. Tôi xác nhận chữ ký tại mục người làm chứng số 1 của tờ giấy ngày 29/12/2001
của tôi. Nội dung vụ việc anh Nguyễn Anh T nhờ vợ chồng anh Q, chị L1
đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giùm cho ông Nguyễn Anh T đối
với diện tích đất 12.550m² tại thôn H, Q. do ngày xưa do nghe UBND
thông báo một hộ chỉ được đứng tên 02 héc ta đất nên ông T mới nhờ vợ chồng
anh Q chị L1 đứng tên giùm 12.550m² đất này. Do anh em trong nnên anh Q
chị L1 đã đồng ý và tôi có ký làm chứng.
Chữ tại mục người làm chứng số 2 của anh Trần Thanh S, anh S là
con riêng của bà L1 (Vợ ông Q), hiện nay anh S L1 đã chết. Hai chữ ký dưới
mục “Anh Q Người nhận” lần lượt là của anh Q và anh T.
Đối với những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện C,
UBND Q, Văn phòng C3 đã được tòa án thông báo nhiều lần nhưng không cử
người tham gia tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến.
* Phần tranh luận tại phiên tòa:
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh Nguyễn Đình Q2 trình
bày: Việc bố mtôi vào năm 2007 đã sang nhượng đất cho ông H2, L thực chất
7
là sang nhượng vị trí thửa 420, tờ bản đồ số 23 nhưng thửa 420 chưa có giấy chứng
nhận nên dùng giấy chứng nhận số R 437590 của diện tích đất 19.120m
2
đi làm thủ
tục tách thửa sang nhượng 4000m
2
của thửa 420 và được cấp giấy chứng nhận (Trên
giấy chứng nhận ghi thửa 105, tờ bản đồ 24). Sau khi được sang tên thì ông H2, bà
L đã chuyển nhượng sang tên cho ông C, N. Sau khi phát hiện giấy chứng nhận
ghi thửa 105 không đúng vị trí thì gia đình tôi vợ chồng ông C, N đã thỏa
thuận kết hợp để đi khai cấp mới giấy chứng nhận cho đúng số thửa, sau đó
ông C, bà N chuyển nhượng thửa 105 cho đúng. Sau đó ông C, bà N đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng thửa 420, nhưng ông C, bà N vẫn đứng tên
trên giấy chứng nhận thửa 105, tờ bản đồ 24 mà không chịu làm thủ tục để sang lại
tên cho bố tôi mà chuyển sang tỉnh Lâm Đồng sinh sống là không đúng. 4000m
2
đất
của thửa 105 là bố tôi đứng tên giùm chú thím tôiông T, bà N2, đất do ông T
N2 canh tác từ năm 1993 đến nay. Nay tôi đề nghị tòa án chấp nhận đơn khởi kiện
để sang lại tên ông T, bà N2 cho đúng chủ sử dụng đất từ trước đến nay.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Mỵ N1, ông Nguyễn
Anh T đnghị tòa án căn cứ tài liệu chứng cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
* Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M’gar phát biểu ý
kiến về việc tuân thủ các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, thư ký, cũng như những người tham gia tố tụng quan điểm về việc
giải quyết vụ án:
- Đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư phiên tòa: Trong quá trình chuẩn
bị xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự. Tuy nhiên còn vi phạm về thời gian chuẩn bị xét xử.
+ Nguyên đơn thực đã hiện đúng, đầy đủ quyền nghĩa vụ quy định tại các
Điều 70; Điều 71 BLTTDS;
+ Bị đơn thực hiện đúng, đầy đủ quyền nghĩa vụ quy định tại các Điều 70;
Điều 72 BLTTDS.
+ Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Anh T Nguyễn Thị
Mỵ N1, ông Nguyễn Xuân C1 Nguyễn Thị T1 đã thực hiện đúng, đầy đủ
quyền nghĩa vụ quy định tại các Điều 70; Điều 73 BLTTDS; UBND huyện C,
UBND Q, huyện C và Văn phòng C3 không thực hiện đúng, đầy đủ quyền
nghĩa vụ quy định tại các Điều 70; Điều 73 BLTTDS.
* Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 122, Điều 127, Điều 131 Bộ luật
dân sự năm 2005, chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN;
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
8
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
hiệu. Thửa đất tọa lạc tại xã Q, huyện C, bị đơn cư trú tại huyện C. Tranh chấp này
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M’gar, được quy định
tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố
tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, mặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ
hai nhưng người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND huyện C, UBND Q,
Văn phòng C3 vắng mặt không do, đây là phiên tòa lần thứ hai nên HĐXX căn
cứ Điều 227 BLTTDS tiếp tục xét xử vụ án là đúng quy định pháp luật.
[3] Về nguồn gốc thửa đất 105 tờ bản đồ 24 tại xã Q:
Ông Nguyễn Văn Q và bà Trần Thị L1 sử dụng diện tích khoảng 23.120m² tại
Q, huyện C. Trong đó, phần diện tích 19.120m² đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R 437590 do UBND huyện C cấp ngày 19/12/2001. Phần diện
tích 4.000m² còn lại chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2007
ông Q sang nhượng cho vợ chồng ông Đỗ Minh H, bà Trần Thị L 4.000m² (Phần đất
chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng ông Nguyễn Văn Q đã lấy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sR 437590 tới Ủy ban nhân dân Q làm hợp đồng
chuyển nhượng, tách diện tích 4000m² cho vợ chồng ông H, bà L. Sau đó vợ chồng
ông H, bà L được cấp GCNQSDĐ số AK 607637 thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24,
diện tích 4000m², còn ông Nguyễn Văn Q được cấp GCNQSDĐ số AK 607636 đối
với phần đất còn lại là thửa đất số 25, tờ bản đồ 24, diện tích 15.120m² .
[4]. Xét yêu cầu khởi kiện của của nguyên đơn:
[4.1] Xét về hình thức hợp đồng: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
năm 2007 giữa ông Nguyễn Văn Q, bà Trần Thị L1 bên nhận chuyển nhượng là
vợ chồng ông Đỗ Minh H, Trần Thị L đối với thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24,
được Ủy ban nhân dân Q chứng thực ngày 26/12/2007, đối tượng của hợp đồng
là bất động sản, việc ký hợp đồng giữa các bên chưa đảm bảo về mặt hình thức, bởi
lẽ chủ thể tham gia kết hợp đồng Trần Thị L1 chết vào ngày 17/7/2007 (Theo
giấy chứng tử số 43, quyển 01/2007 UBND Q). Tuy nhiên, UBND Q vẫn
chứng thực với nội dung: Các bên tự nguyên giao kết hợp đồng, các bên có đủ năng
lực hành vi và tại mục Bên A vẫn có chữ ký và chữ viết của bà Trần Thị L1 không
đúng sự thật. Dó đó hợp đồng chuyển nhượng này vi phạm về hình thức theo quy
định tại Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005.
Về nội dung hợp đồng, thể hiện các bên chuyển nhượng thửa 105, tbản đồ 24,
nhưng diện tích đất thực tế các bên giao nhận là tại vị trí thửa đất số 420, tờ bản đồ
số 23, cũng diện tích 4000m
2
nhưng ông Q dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số R 437590 (diện tích 19.120m²) đi m thủ tục tách thửa chuyển nhượng cho
ông H, bà L là sai về đối tượng của hợp đồng, khi nhận chuyển nhượng ông H và bà
L không biết giấy chứng nhận này là ở vị tkhác. Việc ông Q dùng giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R 437590 (diện tích 19.120m²) đi làm thủ tục tách thửa
9
chuyển nhượng là không đúng đối tượng hợp đồng. Quá trình giải quyết vụ án ông
Q, ông H và L đều thừa nhận, do đó hợp đồng có sự nhầm lẫn đối tượng chuyển
nhượng nên vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ Luật dân sự năm 2005.
Đến ngày 17/12/2012 ông Đỗ Minh H, Trần Thị L lập hợp đồng chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn Bá C, Bùi Thị N thửa đất số 105, tờ bản đồ số
24, Hợp đồng này được Văn phòng C3, quyển số 12/CC-SCC/HĐGD theo đúng quy
định của pháp luật, đồng thời ông C, bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất số BL 379921 do UBND huyện C cấp ngày 03/01/2013 thuộc thửa đất số 105, tờ
bản đồ số 24. Tuy nhiên, trên thực tế là chuyển nhượng và bàn giao thửa đất số 420,
tờ bản đồ số 23, diện tích 4000m
2
nên Hợp đồng này cũng sai về đối tượng hợp đồng
nên vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2005.
[4.2] Quá trình giải quyết ván, tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ
đối với hai thửa đất, kết quả xem xét thẩm định thể hiện: Thửa đất số 105, tờ bản đồ
số 24 đang do vợ chồng ông Nguyễn Anh T, bà Nguyễn Thị Mỵ N1 canh tác trên đất
từ năm 1993 cho đến nay. Đối với thửa đất s420, tờ bản đồ số 23, diện tích 4000m
2
hiện do ông C1 và bà T1 trồng cà phê trên đất đúng với thực tế ông bà nhận chuyển
nhượng từ ông C và bà N, đồng thời ông C1 và bà T1 đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và đang quản lý, sử dụng đất từ 2015 đến nay.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn C không thừa nhận 02 thửa đất trong
đó thửa 4000m
2
nằm trong tổng diện tích đất 19,120m
2
4000m
2
(Chưa giấy
chứng nhận) đã được cấp cho ông C, bà N, nhưng qua thu thập hồ sơ cấp đất tại Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C thể hiện ông C, bà N đã đứng tên trên cả
hai thửa đất có cùng diện tích 4000m
2
là thửa 420 và 105, trong đó thửa 420 đã sang
nhượng cho ông C1, bà T1, còn thửa 105 vẫn đứng tên ông C bà N.
Như vậy, đủ cơ sở để khẳng định thực tế ông C và bà N chưa từng nhận thửa 105,
tờ bản đồ 24 để canh tác mà chỉ dùng giấy chứng nhận của thửa 105 để làm thủ tục
nhận chuyển nhượng từ ông H, L. Do đó, nguyên đơn cho rằng việc chuyển
nhượng thửa đất 105 cho ông H, bà L, và việc ông H bà L chuyển nhượng sang cho
ông C, bà N thực tế các bên chuyển nhượng (Giao nhận) thửa 420 là cơ sở. (Do
thửa 420 tnăm 2007 đến năm 2012 chưa giấy chứng nhận). Đến ngày 15/5/2013
khi ông C và bà N đã được cấp giấy chứng nhận đối với thửa 420 nhưng không làm
thủ tục sang tên lại quyền sdụng đất thửa 105 cho gia đình ông Q không đúng
thực tế người sử dụng đất.
Quá trình giải quyết vụ án, đại diện y quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
Q và ông T, N1 (Ông T em trai ông Q) trình bày, diện tích đất 4000m
2
của thửa
105 một phần diện tích đất ông T nhờ ông Q đứng tên giùm ông T (Ông T nhờ
ông Q đứng tên quyền sử dụng đất 12.550m
2
) và cung cấp một giấy viết tay thể hiện
nội dung ông Q, bà L1 đứng tên giùm ông T. Trên giấy viết tay chữ của ông
Q, ông T ông Nguyễn Mạnh T2 tên làm chứng (ông T2 là em trai ông Q và
anh trai ông T). Nay ông Q, ông T, N1 đề nghị sang tên thửa đất 105 cho ông
T, N1 cho đúng người sử dụng đất thực tế. Xét thấy yêu cầu khởi kiện này của
10
nguyên đơn và yêu cầu của ông T, N1 có cơ sở nên cần chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, cần kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 379921 do UBND huyện C cấp ngày
03/01/2013 thuộc thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24, diện tích 4000 m
2
đứng tên ông
C, N để cấp lại cho đúng chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Anh T và Nguyễn
Thị Mỵ N1.
[5] Về xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Thửa đất 105, tbản đồ số 24, hiện
do ông T N1 quản lý sử dụng, thửa đất 420, tờ bản đồ số 23 hiện do ông C1,
Thanh quản L2 sử dụng trên đất nên không đặt ra vấn đề xử lý hậu quả của hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiệu giữa ông Q và ông H, L, hợp
đồng chuyển nhượng giữa ông H, bà L và ông C, bà N đối với thửa đất 105, tờ bản
đồ số 24.
[6] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
nên bị đơn phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ phí sao lục hồ sơ tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai với tổng số tiền 6.000.000đ. Tuy nhiên, tại phiên
tòa ông Nguyễn Anh T Nguyễn Thị Mỵ N1 nhận nộp số tiền này. Xét thấy việc
ông T, bà N1 nhận nộp là tự nguyện nên cần chấp nhận.
Nguyên đơn được nhận lại số tiền 6.000.000 đồng đã nộp tạm ứng chi phí tố
tụng sau khi thu được từ ông Nguyễn Anh T và bà Nguyễn Thị Mỵ N1.
[7] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị
đơn phải chịu án phí dân sự thẩm 300.000đ. Tuy nhiên bị đơn thuộc trường hợp
được miễn án phí nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
* Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều
144; Điều 147; Điều 157 B luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 122, Điều 127, Điều 131 Bộ luật dân sự năm 2005.
- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/10/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1] Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn
Q:
- Tuyên hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất và tài sản gắn liền
với đất giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Văn Q, bà Trần Thị L1 và bên nhận
chuyển nhượng là ông Đỗ Minh H, Trần Thị L đối với thửa đất s 105, tờ bản đồ
số 24, do Ủy ban nhân dân Q chứng thực ngày 26/12/2007, số 174, quyển số 01
TP/CC-SCC/HĐGD;
- Tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển
nhượng là ông Đỗ Minh H, bà Trần Thị L và bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn
11
Bá C, bà i Thị N đối với thửa đất số 105, tờ bản đồ số 24, do Văn phòng C3 công
chứng ngày 17/12/2012, số công chứng 8195, quyển số 12/CC-SCC/HĐGD.
- Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi, hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BL 379921 do UBND huyện C cấp ngày 03/01/2013 thuộc thửa đất số
105, tờ bản đồ số 24, diện ch 4000 m
2
đứng tên ông Nguyễn Bá C, bà Bùi Thị N để
cấp lại cho đúng chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Anh Tbà Nguyễn Thị Mỵ N1.
[2]. Về chi phí ttụng: Ông Nguyễn Anh T và bà Nguyễn Thị Mỵ N1 nhận nộp
chi phí tố tụng 6.000.000đ. Ông Nguyễn Văn Q được nhận lại số tiền đã tạm ứng
6.000.000 đồng sau khi thu được từ ông Nguyễn Anh T và bà Nguyễn Thị Mỵ N1.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Đỗ Minh H và bà Trần Thị L thuộc
trường hợp được miễn án phí nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo
bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 Điều 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Đắk Lắk; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND huyện Cư M’gar;
- Chi cục THADS huyện Cư M’gar;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Bế Văn Toàn
Tải về
Bản án số 22/2025/DS-ST Bản án số 22/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2025/DS-ST Bản án số 22/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất