Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST ngày 26/07/2024 của TAND huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST ngày 26/07/2024 của TAND huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Kim Bảng (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 22/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/07/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Do khi ly hôn bà H và ông Kh không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung nên sau khi ly hôn bà H yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIM BẢNG
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 22/2024/HNGĐ-ST
Ngày 26-7-2024
V/v tranh chấp chia tài sản sau khi
ly hôn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Đức Thạo.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Duy Vĩnh.
2. Ông Nguyễn Trường Dũng.
- Thư phiên t: Ông Trần Quang Tất - Thư Toà án nhân dân huyện
Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam tham gia
phiên toà: Bà Lê Thị Hồng Hạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh
Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2024/TLST - HNGĐ ngày 09
tháng 01 năm 2024 về Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôntheo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 23/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Trương Thị H, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn M, N,
huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.
- Bị đơn: Ông Trần Đăng Kh, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn M, N, huyện
K, tỉnh Hà Nam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại
phiên tòa, nguyên đơn là Trương Thị H trình bày: Năm 1993 kết hôn với ông
Trần Đăng Kh. Trong quá trình chung sống vchồng, năm 1996 ông Kh
mua được thửa đất số 256, tờ bản đồ PL2, diện tích 183m
2
tại thôn M, xã N, huyện
K, tỉnh Nam đã được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AE 955745 ngày 30/5/2006 mang tên hộ ông Trần Đăng Kh Trương Thị
H. Trên thửa đất này ông đã xây dựng một ngôi nhà cấp 4, một ngôi nhà mái
2
bằng một tầng chưa trát công trình phụ. Qtrình chung sống do vợ chồng mâu
thuẫn nên năm 2017 ông Kh đã làm thủ tục ly hôn theo quy định của pháp
luật, quá trình giải quyết ly hôn thì ông Kh không đnghị Toà án phân chia
tài chung để ông tự thoả thuận phân chia nhưng từ đó cho đến nay ông
không tự thoả thuận phân chia được. Nay H đề nghị Toà án phân chia tài sản
chung của và ông Khlà thửa đất số 256, tờ bản đồ PL2, diện tích 183m
2
tại thôn
M, N, huyện K, tỉnh Nam đã được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AE 955745 ngày 30/5/2006 mang tên hộ ông Trần Đăng Kh,
bà Trương Thị H và các tài sản trên đất gồm một ngôi nhà cấp 4, một ngôi nhà mái
bằng một tầng chưa trát công trình phụ. H xin được quản sử dụng toàn bộ
thửa đất và tài sản trên đất nêu trên, có trách nhiệm thanh toán tiền chênh lệch ½
giá trị tài sản cho ông Trần Đăng Kh.
Tại lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, bị đơn ông
Trần Đăng Kh trình bày: Về quan hệ hôn nhân trước đây giữa ông với Trương
Thị H cũng như việc ông và H trong quá trình chung sống vợ chồng tạo lập
được tài sản chung thửa đất s256, tờ bản đồ PL2, diện tích 183m
2
tại thôn M,
N, huyện K, tỉnh Hà Nam đã được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số AE 955745 ngày 30/5/2006 mang tên hộ ông Trần Đăng Kh,
Trương Thị H và tài sản trên đất đúng như H đã trình bày. Năm 2017 ông
H ly hôn theo quy định của pháp luật, khi giải quyết ly hôn tông H không
đề nghị Toà án phân chia tài sản chung nêu trên mà để hai bên tthoả thuận phân
chia nhưng từ đó cho đến nay ông H vẫn không tthoả phân chia được, hiện
nay ông người quản và sử dụng toàn bộ tài sản đó. Nay H khởi kiện yêu
cầu Toà án phân chia tài sản chung của vợ chồng thì ông hoàn toàn nhất trí, tuy
nhiên vcách thức chia ông đề nghị Toà án chia đôi thửa đất bám mặt đường mỗi
người được sử dụng 3m, nếu không thể chia đôi chạy dọc thửa đất như trên thì ông
đề nghị chia đôi cắt ngang thửa đất, ông xin nhận phần phía trong thửa đất (phần
nhà cấp 4 để ông chỗ ở), hai bên không phải trả tiền chênh lệch tài sản cho
nhau.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán thụ giải quyết vụ
án, tiến hành thu thập chứng cứ đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự; tại phiên toà, Hội đồng xét xử Thư phiên tòa đã tuân thủ đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng, đầy
đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng
dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;
Điều 39; khoản 2 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 33, 59, 62 Luật hôn
nhân gia đình; điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định vmức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án
phí, lệ phí Tòa án:
3
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản sau khi ly hôn của bà Trương Thị
H. Giao cho Trương Thị H được quản lý, sử dụng diện tích 183m
2
đất trị giá
1.281.000.000 đồng thuộc thửa đất số 256, tờ bản đồ PL2, diện tích 183m
2
tại thôn
M, N, huyện K, tỉnh Nam đã được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AE 955745 ngày 30/5/2006 mang tên hộ ông Trần Đăng Kh,
bà Trương Thị H. Trên thửa đất này bà H được sở hữu, sử dụng các tài sản gồm: 01
nhà mái bằng một tầng chưa trát xây năm 2008 diện tích sử dụng 48m
2
đã hết khấu
hao không còn giá trị sử dụng; 01 nhà cấp 4 lợp mái ngói diện tích 18m
2
xây năm
2012 trị giá 10.440.000 đồng; 01 bể nước đã hết khấu hao không còn giá trị sử
dụng; 01 nvệ sinh đã hết khấu hao không n giá trị sử dụng; 02 trụ cổng
đoạn tường bao phía Bắc của thửa đất đã hết khấu hao không còn giá trị sử dụng.
Tổng giá trị đất và tài sản trên đất là 1.291.440.000 đồng.
Trương Thị H phải trách nhiệm thanh toán cho ông Trần Đăng Kh giá
trị phần chênh lệch về tài sản 645.720.000 đồng. Ông Trần Đăng Kh được nhận
số tiền chênh lệch về tài sản do bà Trương Thị H trả là 645.720.000 đồng.
2. Về án phí: H ông Kh phải chịu án phí gngạch đối với phần giá
trị tài sản được chia theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây vụ án dân sự tranh chấp chia tài sản sau khi
ly hôn. Bị đơn ông Trần Đăng Kh có địa chỉ trú tại huyện Kim Bảng, tỉnh
Nam. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
[2] Về nội dung tranh chấp: Các tài sản bà H, ông Kh khai thống nhất và cùng
xác định là tài sản chung của ông bà trong thời kỳ hôn nhân đã được Hội đồng định
giá tài sản định giá thành tiền gồm: Diện tích đất 183m
2
thuộc thửa đất số 256, tờ
bản đồ PL2 tại thôn M, N, huyện K, tỉnh Nam đã được UBND huyện K cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 955745 ngày 30/5/2006 mang tên hộ
ông Trần Đăng Kh, Trương Thị H giá trị 1.281.000.000 đồng (theo Hội đồng
định giá xác định thì 1 m
2
đất nêu trên theo giá thị trường thời điểm hiện tại
7.000.000 đồng). Các tài sản trên đất: 01 nhà mái bằng một tầng chưa trát xây năm
2008 diện tích sử dụng 48m
2
đã hết khấu hao không còn giá trị sử dụng; 01 nhà cấp
4 lợp mái ngói diện tích 18m
2
xây năm 2012 trị giá 10.440.000 đồng; 01 bể nước đã
hết khấu hao không n giá trị sử dụng; 01 nhà vệ sinh đã hết khấu hao không còn
giá trị sdụng; 02 trụ cổng đoạn ờng bao phía Bắc của thửa đất đã hết khấu hao
4
không còn giá trsử dụng. Tổng giá trị đất tài sản trên đất 1.291.440.000
đồng.
Nay H và ông Kh không thỏa thuận được với nhau nên về nguyên tắc tài sản
chung của vợ chồng sau khi ly hôn được chia đôi sẽ tính đến thực tế nhu cầu sử
dụng, khả năng về kinh tế của từng người cũng nđảm bảo ổn định nh hình an
ninh trật tự sau này. Do từ khi H ông Kh ly hôn đến nay thì hai con trai của
ông đều cùng với H ba mcon phải đi nhờ, người con trai lớn đã 30
tuổi nhưng chưa xây dựng gia đình riêng chưa chỗ ở, nguyn vọng của H
muốn được nhận tài sản bằng hiện vật để mẹ con bà xây nhà làm nơi ở ổn định. Còn
ông Kh xác định hiện nay ông bị ốm đau bệnh tật, khó khăn về kinh tế nên nếu nhận
tài sản bằng hiện vật thì ông không có khả năng để thanh toán chênh lệch tài sản cho
bà H. Theo quan điểm của chính quyền địa phương xã N, huyện K xác định thửa đất
của ông Kh, H nếu chia đôi dọc theo thửa đất thì mỗi bên chỉ được khoảng 03m
mặt nên không đủ điều kiện để tách thửa, nếu chia đôi theo chiều ngang thửa đất thì
phần đất bên trong sẽ không ngõ đi ra đường nên không đảm bảo quyền của
người sử dụng đất. Ngoài ra, nếu giao cho ông Kh được sử dụng phần đất bên trong
tạo cho ông có ngõ đi thì cũng không đủ điều kiện về hạn mức để tách thửa, bản
thân ông Kh và H cũng không thỏa thuận được về việc ngắt ra một phần đất làm
ngõ đi. Bên cạnh đó, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa giữa ông Kh và bà H
luôn có thái độ mâu thun gay gắt với nhau, nếu ông bà ở cạnh nhau s khó đảm bảo
ổn định nh nh an ninh trật tthôn xóm.
vậy, Hội đồng xét xử thấy cần giao cho H được quyền quản lý, sử dụng
toàn bộ thửa đất nêu trên các tài sản trên đất, song H phải trách nhiệm
thanh toán cho ông Kh phần chênh lệch tài sản bằng ½ giá trị tài sản chung của vợ
chồng, cthể như sau: 1.291.440.000 đồng : 2 = 645.720.000 đồng hoàn toàn phù
hợp theo quy định tại các Điều 33, 59, 62 Luật hôn nhân và gia đình. Như vậy, ông
Kh được nhận tiền chênh lệch về tài sản do bà H thanh toán là 645.720.000 đồng.
[3] Về chi phí tố tụng: H đã nộp tạm ứng chi phí cho việc xem xét, thẩm
định, định giá tài sản cũng như trích đo thửa đất đã chi đủ. Quá trình giải quyết
vụ án tại phiên tòa, H xin chịu toàn bộ không yêu cầu Tòa án giải quyết
nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[4] Về án phí: H ông Kh phải chịu án phí đối với phần giá trị tài sản
được chia theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân s điểm b khoản 5
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, cụ thể: Bà H và ông Kh mỗi bên được nhận giá trị tài
sản 1.291.440.000 đồng : 2 = 645.720.000 đồng nên mỗi bên phải chịu án phí
phân chia tài sản 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp
5
vượt 400.000.000 đồng 245.720.000 đồng x 4% = 9.828.800 đồng (làm tròn
thành 9.828.000 đồng), cộng là 29.828.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 2
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 33, 59, 62 Luật hôn nhân gia đình;
điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Danh mục án phí, lệ phí Tòa
án:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản sau khi ly hôn của bà Trương Thị
H.
Giao cho Trương Thị H được quản lý, sử dụng diện tích 183m
2
đất trị giá
1.281.000.000 đồng thuộc thửa đất số 256, tờ bản đồ PL2, diện tích 183m
2
tại thôn
M, N, huyện K, tỉnh Nam đã được UBND huyện K cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AE 955745 ngày 30/5/2006 mang tên hộ ông Trần Đăng Kh,
Trương Thị H (có trích đo vị trí thửa đất kèm theo). Trên thửa đất này H
được sở hữu, sdụng các tài sản gồm: 01 nhà mái bằng một tầng chưa trát xây
năm 2008 diện tích sử dụng 48m
2
đã hết khấu hao không còn giá trị sử dụng; 01
nhà cấp 4 lợp mái ngói diện tích 18m
2
xây năm 2012 trgiá 10.440.000 đồng; 01 bể
nước đã hết khấu hao không n giá trsdụng; 01 nhà vệ sinh đã hết khấu hao
không còn giá trị sử dụng; 02 trụ cổng đoạn tường bao phía Bắc của thửa đất đã
hết khấu hao không còn giá trị sử dụng. Tổng giá trị đất tài sản trên đất
1.291.440.000đ (một tỷ hai trăm chín ơi mốt triệu bốn trăm bốn ngươi nghìn
đồng).
Bà Trương Thị H phải có trách nhiệm thanh toán cho ông Trần Đăng Kh giá trị
phần chênh lệch về i sản 645.720.000đ (u trăm bốn ơi lăm triệu bảy trăm
hai mươi nghìn đồng).
Ông Trần Đăng Kh được nhận số tiền chênh lệch vtài sản do bà Trương Thị H
trả 645.720.000đ (sáu trăm bốn mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).
2. Về Án phí:
- Trương Thị H phải chịu 29.828.000đ (hai mươi chín triệu tám trăm hai
mươi tám nghìn đồng) án phí dân sự có giá ngạch. Được trừ vào số tiền tạm ứng án
phí H đã nộp 3.202.500 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0000080
ngày 09 tháng 01 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh
Nam, bà H còn phải nộp tiếp tiền án phí là 26.625.500đ (hai mươi sáu triệu sáu
trăm hai mươi lăm nghìn năm trăm đồng).
6
- Ông Trần Đăng Kh phải chịu 29.828.000đ (hai mươi chín triệu tám trăm
hai mươi tám nghìn đồng) án phí dân sự có giá ngạch.
Báo cho các đương sự biết quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án.
Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp
luật quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài
sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì
quyết định kể tngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi nh án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Hà Nam; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Kim Bảng;
- Chi cục THADS H. Kim Bảng;
- Các đương sự;
- Lưu HS, VP.
Nguyễn Đức Thạo
7
8
9
10
11
12
13
Tải về
Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất