Bản án số 219/2025/KDTM-PT ngày 05/09/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về mua bán hàng hóa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 219/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 219/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 219/2025/KDTM-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 219/2025/KDTM-PT ngày 05/09/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về mua bán hàng hóa |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về mua bán hàng hóa |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
| Số hiệu: | 219/2025/KDTM-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 05/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, giữa Công ty TNHH Bê tông và xây dựng MĐ và Công ty CP đầu tư xây dựng và thương mại APV |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 219/2025/KDTM-PT
Ngày: 05/9/2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đức Bằng
Các Thẩm phán : Ông Trần Anh Tuấn
Ông Tống Quốc Thanh
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên toà:
Bà Nguyễn Thị Huyền Trang- Kiểm sát viên.
Ngày 05/9/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc
thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 178/2025/ KDTM-TLPT
ngày 05/8/2025 về việc Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 18/2025/KDTM-ST ngày
31/3/2025 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội bị kháng
cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 715/2025/QĐXX-PT ngày 11/8/2025
và Quyết định hoãn phiên tòa số 813/2025/QĐ-PT ngày 28/8/2025, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty TNHH Bê tông và xây dựng MĐ
Đại chỉ: TDP Quyết Hùng, phường B, thành phố Hải Phòng (trước là: TDP
Quyết Hùng, phường MĐ, thành phố TN, thành phố Hải Phòng).
Văn phòng đại diện tại Hà Nội: Tầng 15, tòa nhà Diamond Flower, số 01
Hoàng Đạo Thúy, phường Thanh Xuân, Hà Nội (trước là: Tầng 15, tòa nhà
Diamond Flower, số 01 Hoàng Đạo Thúy, phường NC, quận TX, Hà Nội).
Đại diện theo pháp luật: Bà Vũ Thị T–Giám đốc.
2
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh C, bà Nguyễn An H và bà
Nguyễn Thị T1 (theo Giấy ủy quyền số 1208/UQ-MĐ ngày 12/8/2025) (Ông
Cường, bà Hà có mặt)
Đại chỉ: Tầng 15, tòa nhà Diamond Flower, số 01 Hoàng Đạo Thúy, phường
NC, quận T, Hà Nội).
2. Bị đơn: Công ty CP đầu tư xây dựng và thương mại APV
Địa chỉ: tầng 1, nhà Licogi 13, ngõ 164 đường Khuất Duy Tiến, phường TX,
Hà Nội (trước là: tầng 1, nhà Licogi 13, ngõ 164 đường Khuất Duy Tiến, phường
NC, quận TX, Hà Nội).
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Huy K –Giám đốc.
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Thu N (theo Giấy ủy quyền ngày
04/9/2025) (Bà Ngân có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Công ty TNHH Bê tông và Xây dựng MĐ (sau đây gọi tắt là Công ty MĐ)
và Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Thương mại APV (Sau đây gọi tắt là Công ty
APV) có ký Hợp đồng mua bán số 11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018
về việc cung cấp cọc bê tông cho dự án tại KĐT cảng Ngọc Châu, phường Tuần
Châu, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể như sau: Bên A (Công ty CP Đầu tư
Xây dựng và Thương mại APV) đồng ý mua và bên B (Công ty TNHH Bê tông
và Xây dựng MĐ) đồng ý cung cấp vật liệu cọc bê tông D300A, D350A. Tổng
giá trị hợp đồng (Bao gồm 10% thuế GTGT): 846.155.200 đồng. Tiến độ thanh
toán: Sau khi Bên A nhận được toàn bộ số cọc và hồ sơ thanh toán từ Bên B, Bên
A thanh toán cho Bên B 100% giá trị khối lượng hàng hóa trong vòng 10 ngày
làm việc.
Quá trình thực hiện hợp đồng:
Thực hiện Hợp đồng đã ký kết, Công ty MĐ đã hoàn thành toàn bộ các nghĩa
vụ cam kết, tiến hành cung cấp đầy đủ hàng hóa, đảm bảo theo đúng thiết kế, tiêu
chuẩn chất lượng theo quy định. Ngày 30/01/2024 Công ty MĐ đã gửi hồ sơ đối
chiếu công nợ cho Công ty APV, trong đó thể hiện giá trị hàng hóa như sau:
Giá trị hàng hóa thực tế đã bàn giao là: 846.155.200 VNĐ.
Giá trị đã thanh toán là: 150.000.000 VNĐ.
Giá trị Bên A còn phải thanh toán là: 696.155.200 VNĐ.
Ngày 30/01/2024, Công ty MĐ và Công ty APV đã ký biên bản thỏa thuận
thanh toán công nợ, theo đó Công ty APV xác nhận còn nợ Công ty MĐ số tiền
696.155.200 đồng. Hai bên thống nhất phương án trả nợ theo lộ trình:
3
Tháng 2/2024: Công ty APV sẽ thanh toán: 100.000.000 đồng; Tháng
4/2024: Công ty APV sẽ thanh toán: 100.000.000 đồng; Tháng 5/2024: Công ty
APV sẽ thanh toán: 100.000.000 đồng; Tháng 6/2024: Công ty APV sẽ thanh
toán: 100.000.000 đồng ; Tháng 7/2024: Công ty APV sẽ thanh toán: 100.000.000
đồng; Tháng 8/2024: Công ty APV sẽ thanh toán: 100.000.000 đồng; Tháng
9/2024: Công ty APV sẽ thanh toán: 96.155.200 đồng.
Công ty APV đưa ra lộ trình thanh toán nhưng vẫn không thực hiện thanh
toán theo cam kết.
Công ty MĐ đã xuất hóa đơn VAT số 0000042 đối với toàn bộ giá trị hàng
hóa từ ngày 18/7/2019 kèm theo hồ sơ đề nghị thanh toán đầy đủ cho Công ty
APV. Kể từ khi đến hạn thanh toán các hợp đồng trên, mặc dù Công ty MĐ đã
nhiều lần làm việc trực tiếp hoặc đôn đốc bằng văn bản nhưng Công ty APV vẫn
không hợp tác trả nợ và không có lộ trình thanh toán khả thi.
Ngày 07/02/2024, Công ty APV đã thanh toán thêm cho công ty MĐ
100.000.000 đồng.
Ngày 03/01/2025, Đại diện Công ty MĐ và Đại diện Công ty APV đã gặp
và trao đổi trực tiếp về phương án thanh toán công nợ. Tại buổi làm việc, Đại diện
Công ty APV xác nhận công nợ của Hợp đồng mua bán số
11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018 Công ty APV phải trả cho Công ty
MĐ số tiền là 596.155.200 đồng.
Công ty APV cam kết thanh toán thành 03 đợt: Đợt 1 vào tháng 01/2025,
Đợt 2 vào tháng 6/2025, Đợt 3 vào tháng 12/2025 và đề nghị Công ty MĐ rút đơn
khởi kiện. Công ty MĐ không đồng ý với lộ trình thanh toán do Công ty APV đưa
ra. Việc Công ty CP Đầu tư Xây dựng và Thương mại APV không thanh toán theo
cam kết đã gây thiệt hại về kinh tế cho Công ty MĐ, xâm phạm các quyền và lợi
ích hợp pháp của Công ty MĐ. Căn cứ hợp đồng đã ký, công việc đã thực hiện và
quy định pháp luật hiện hành, đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết và buộc: Công
ty APV phải thanh toán cho Công ty MĐ số tiền chưa thanh toán của Hợp đồng
cụ thể là: 596.155.200 đồng.
2. Bị đơn - Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại APV trình
bày:
Tại Biên bản hoà giải ngày 13/3/2025, đại diện của bị đơn trình bày: Công ty
APV đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án gửi. Tuy nhiên, do chưa đưa ra
được phương án trả nợ nên Công ty không đến Tòa theo các giấy triệu tập.
Công ty APV xác nhận và có trách nhiệm thanh toán cho Công ty MĐ số tiền
còn nợ theo Hợp đồng mua bán số 11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018
là: 596.155.200 đồng. Công ty có nguyện vọng hòa giải theo lộ trình thanh toán
như sau:
4
Chậm nhất đến ngày 30/4/2025 Công ty APV sẽ có trách nhiệm thanh toán
Công ty MĐ số tiền là: 300.000.000 đồng.
Chậm nhất đến ngày 30/6/2025 Công ty APV sẽ có trách nhiệm thanh toán
Công ty MĐ số tiền là: 296.155.200 đồng.
3. Tại phiên tòa:
3.1 Đại diện nguyên đơn trình bày:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn phải thanh
toán số tiền còn nợ là 596.155.200 đồng.
3.2 Bị đơn trình bày:
Bị đơn vắng mặt không có lý do nên chủ Toạ thay mặt Hội đồng xét xử công
bố lời khai của bị đơn trình bày tại Biên bản hoà giải ngày 13/3/2025.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 18/2025/KDTM-ST ngày
31/3/2025 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội quyết định:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty MĐ đối với Công ty APV.
2/ Buộc Công ty APV có nghĩa vụ thanh toán trả Công ty MĐ số tiền còn nợ
theo Hợp đồng mua bán số 11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018 là
596.155.200 đồng.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền thi hành án và
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
4. Sau khi xét xử sơ thẩm
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 28/4/2025 Công ty APV có đơn
kháng cáo đối với Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 18/2025/KDTM-ST
ngày 31/3/2025 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, đề nghị Toà án cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại, với lý do:
Bản án sơ thẩm không khách quan, chưa đánh giá đúng bản chất sự việc. Kết
luận trong bản án chưa đúng và chưa phù hợp với các hồ sơ/tài liệu/chứng cứ có
trong vụ án, có thiếu sót trong áp dụng pháp luật; gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty APV.
Ngoài đơn kháng cáo, người kháng cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ
nào khác.
5. Tại Tòa án cấp phúc thẩm:
5.1 Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa
phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của Công ty APV trình bày:
Công ty APV xác nhận những nội dung Công ty MĐ trình bày liên quan đến
việc ký kết Hợp đồng mua bán số 11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018 là
5
đúng. Công ty APV đã nhận đủ số lượng hàng hóa cọc bê tông cung cấp theo hợp
đồng và đã đưa vào công trình. Giá trị hàng hóa thực tế đã bàn giao là 846.155.200
đồng và Công ty MĐ đã xuất hóa đơn VAT. Công ty APV đã thanh toán một phần
giá trị phải thanh toán là 250.000.000 đồng. Tuy nhiên, Công ty APV chưa thanh
toán 100% giá trị hợp đồng do nguyên đơn chưa cung cấp đủ hồ sơ thanh toán
theo thỏa thuận tại khoản 3.3 Điều 3 Hợp đồng (Tiến độ thanh toán). Tòa án cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải thanh toán
số tiền còn lại là không đúng.
Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về thủ tục tố tụng về việc mở phiên tòa không
đúng với thông báo triệu tập, như: Theo biên bản phiên tòa thì thời gian xét xử
vào hồi 09h ngày 31/3/2025 nhưng giấy triệu tập bị đơn là vào hồi 14h ngày
31/3/2025. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có vi phạm về thời gian giải quyết
vụ án và thời gian gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát.
Vì vậy, Công ty APV giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét
xử hủy bản án sơ thẩm với những lý do nêu trên.
5.2 Công ty MĐ trình bày:
Công ty MĐ không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Nguyên đơn
đã cung cấp đầy đủ hàng hóa cho bị đơn theo hợp đồng và bị đơn cũng đã xác
nhận đúng giá trị hàng hóa thực tế đã bàn giao là 846.155.200 đồng. Phần công
trình đóng móng cọc bê tông đã được nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Đến thời
điểm hiện nay, Chủ đầu tư và bị đơn không có bất kỳ khiếu nại, ý kiến nào về chất
lượng và số lượng hàng hóa đã bàn giao.
Công ty APV đã xác nhận giá trị thanh toán và thanh toán một phần công nợ.
Tại thời điểm ký biên bản xác nhận công nợ và thanh toán, Công ty APV không
có yêu cầu nào về hồ sơ thanh toán hay ý kiến về việc chưa nhận được hồ sơ thanh
toán. Thực tế, Công ty MĐ đã bàn giao hồ sơ thanh toán và xuất hóa đơn VAT
cho Công ty APV. Do đó, việc Công ty APV không thanh toán số công nợ còn lại
là không có căn cứ.
Các đương sự thống nhất xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã nộp cho
Tòa án ra thì không còn tài liệu chứng cứ nào khác để nộp cho Tòa án và đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
6. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trình bày quan điểm
và đề xuất hướng giải quyết vụ án:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy
định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, mở
phiên tòa và tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự
có mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
6
sự.
- Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ xét thấy việc ký kết Hợp đồng
mua bán số 11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018 giữa hai bên là tự
nguyện, đã được xác định bằng chữ ký và con dấu của những người có thẩm
quyền. Hợp đồng đã được các bên tự nguyện thực hiện và thanh toán một phần
giá trị hợp đồng nên được xác định là hợp pháp. Các đương sự không kháng cáo
về nội dung này nên có hiệu lực pháp luật
Tại Biên bản thỏa thuận thanh toán công nợ 30/01/2024 và Biên bản phiên
họp ngày 13/3/2025, Công ty APV xác nhận và đồng ý giá trị thanh toán Hợp
đồng mua bán số 11A là 846.155.200 đồng, đã thanh toán 250.000.000 đồng và
đưa ra lộ trình thanh toán số tiền nợ còn lại là 596.155.200 đồng, không có bất kỳ
ý kiến hay khiếu nại nào về việc yêu cầu Công ty MĐ phải cung cấp hồ sơ thanh
toán. Biên bản thỏa thuận thanh toán công nợ có chữ ký xác nhận và đóng dấu của
người đại diện theo pháp luật của 02 Công ty nên phát sinh hiệu lực thi hành đối
với các bên. Vì vậy, việc Công ty APV lấy lý do hồ sơ thanh toán chưa đầy đủ là
cố tình nại ra trách nhiệm thanh toán số tiền còn lại. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của Công ty MĐ, buộc Công ty APV phải thanh toán số tiền nợ
còn lại của Hợp đồng mua bán số 11A là 596.155.200 đồng là có căn cứ.
Đối với thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm về lỗi đánh máy, thời gian chuyển
hồ sơ và thời gian xét xử không làm thay đổi nội dung vụ án, tuy nhiên, Tòa án
cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Công ty
APV và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Về án phí: các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Xét về thủ tục kháng cáo:
Theo các tài liệu tống đạt bản án thể hiện, ngày 15/4/2025 Công ty APV – bị
đơn nhận được Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 18/2025/KDTM-ST
ngày 31/3/2025 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân. Ngày 28/4/2025, Công
ty APV gửi Đơn kháng cáo đề ngày 26/4/2025 đối với toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 29/4/2025, Toà án nhân dân quận Thanh Xuân nhận được đơn kháng cáo.
Đơn kháng cáo do người đại diện theo pháp luật của bị đơn ký. Đơn kháng cáo và
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm làm và nộp trong thời hạn luật định
nên kháng cáo được chấp nhận. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết là
đúng thẩm quyền.
7
Về người tham gia tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của
Tòa án cho các đương sự trong vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự có
mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2].Về nội dung kháng cáo:
2.1 Về thủ tục tố tụng tại cấp sơ thẩm:
Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, trình bày của các đương sự và
diễn biến phiên tòa thể hiện phiên tòa xét xử sơ thẩm ngày 31/3/2025 được diễn
ra vào hồi 14h ngày 31/3/2025. Biên bản phiên tòa ghi 9h ngày 31/3/2025 là do
lỗi đánh máy. Bị đơn vắng mặt trong tất cả các buổi xét xử nhưng lại căn cứ vào
biên bản phiên tòa cho rằng phiên tòa sơ thẩm diễn ra không đúng thời gian triệu
tập là không có căn cứ.
Ngoài ra, bị đơn cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm cho vi phạm về thời gian
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và thời gian xét xử.
Hội đồng xét xử xét thấy những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm về lỗi đánh
máy và thời gian xét xử nêu trên không làm thay đổi nội dung vụ án nên không
cần thiết phải hủy án. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
2.2 Về nội dung vụ án:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, trình bày của các đương
sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định:
Ngày 10/9/2018, Công ty MĐ và Công ty APV đã ký kết Hợp đồng mua bán
số 11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018 về việc cung cấp cọc bê tông cho
dự án tại KĐT cảng Ngọc Châu, phường Tuần Châu, TP Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh. Tổng giá trị hợp đồng (Bao gồm 10% thuế GTGT): 846.155.200 đồng.
Sau khi ký Hợp đồng nêu trên, Công ty MĐ đã tiến hành cọc bê tông cho
Công ty MĐ để thi công dự án tại KĐT cảng Ngọc Châu, phường Tuần Châu, TP
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Công ty MĐ đã xuất hóa đơn VAT số 0000042 đối
với toàn bộ giá trị hàng hóa từ ngày 18/07/2019 kèm theo hồ sơ đề nghị thanh
toán cho Công ty APV.
Ngày 30/01/2024, Công ty MĐ và Công ty APV có ký Biên bản thỏa thuận
thanh toán công nợ, theo đó Công ty APV xác nhận: Giá trị hợp đồng đã thực hiện
là 846.155.200 đồng, đã thanh toán 150.000.000 đồng còn nợ 696.155.200 đồng.
Đồng thời, hai bên thống nhất phương án trả nợ theo lộ trình từ tháng 02/2024 đến
tháng 9/2024 sẽ thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.
Ngày 07/02/2024, Công ty APV thanh toán thêm cho công ty MĐ
100.000.000 đồng nhưng sau đó không thanh toán nữa, vi phạm phương án trả nợ
cam kết.
Hội đồng xét xử nhận thấy, việc ký kết Hợp đồng mua bán số
11A/2018/HĐMB/APV-MĐ ngày 10/9/2018 trên cơ sở tự nguyện, nội dung thỏa
8
thuận không trái quy định của pháp luật. Các bên trong quan hệ tranh chấp đều
thừa nhận các nội dung thỏa thuận và tổng giá trị phải thanh toán theo hợp đồng
nên có hiệu lực pháp lý.
Bị đơn có ý kiến cho rằng ông Tạ Vũ Lương, Giám đốc tài chính ký hợp
đồng là không có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét thấy sau khi ký hợp đồng các bên
đã thực hiện hợp đồng. Người đại diện theo pháp luật của bị đơn không phản đối
về hiệu lực của hợp đồng, thẩm quyền ký kết và đã ký xác nhận biên bản thanh
toán công nợ ngày 30/01/2024 nên Hợp đồng mua bán số 11A có hiệu lực thi hành
đối với các bên. Tại phiên tòa, các đương sự không kháng cáo về nội dung này
nên có hiệu lực pháp luật.
Hiện nay, các bên tranh chấp chủ yếu về nghĩa vụ thanh toán số tiền còn lại
của Hợp đồng mua bán số 11A là 596.155.200 đồng theo Biên bản thỏa thuận
thanh toán công nợ ngày 30/01/2024 và biên bản phiên họp ngày 13/3/2025. Công
ty APV kháng cáo cho rằng chưa có nghĩa vụ thanh toán 100% giá trị khối lượng
hàng hóa cho Công ty MĐ do chưa nhận được đầy đủ hồ sơ quyết toán theo thỏa
thuận tại khoản 3.3 Điều 3 Hợp đồng (Tiến độ thanh toán).
Xét thấy:
Sau khi ký Hợp đồng mua bán số 11A, Công ty MĐ đã tiến hành bán cọc bê
tông cho Công ty APV để thi công dự án tại KĐT cảng Ngọc Châu, phường Tuần
Châu, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay, công trình đã được nghiệm thu
và được đưa vào sử dụng, không có bất kỳ bên nào khiếu nại hay có ý kiến về số
lượng và chất lượng hàng hóa cọc bê tông của Công ty MĐ. Công ty MĐ đã xuất
hóa đơn VAT số 0000042 đối với toàn bộ giá trị hàng hóa từ ngày 18/07/2019,
kèm theo hồ sơ đề nghị thanh toán đầy đủ cho Công ty APV. Công ty APV không
có bất kỳ phản đối nào đối với giá trị thanh toán của hợp đồng và đã kê khai, báo
cáo thuế theo hóa đơn VAT số 0000042 do Công ty MĐ xuất. Các ngày 29/7/2022,
19/6/2023 và ngày 07/02/2024 đã thanh toán một phần số tiền mua bán hàng hóa
là 250.000.000 đồng.
Tại Biên bản thỏa thuận thanh toán công nợ ngày 30/01/2024 và Biên bản
phiên họp ngày 13/3/2025, Công ty APV xác nhận và đồng ý giá trị thanh toán
Hợp đồng mua bán số 11A là 846.155.200 đồng, đã thanh toán 250.000.000 đồng
và đưa ra lộ trình thanh toán số tiền nợ còn lại là 596.155.200 đồng, không có bất
kỳ ý kiến hay khiếu nại nào về việc chưa nhận được hồ sơ thanh toán hoặc yêu
cầu Công ty MĐ phải cung cấp hồ sơ thanh toán. Biên bản thỏa thuận thanh toán
công nợ này do chính Công ty APV soạn thảo, có chữ ký xác nhận và đóng dấu
của người đại diện theo pháp luật của 02 Công ty nên phát sinh hiệu lực thi hành
đối với các bên. Mặc dù đưa ra lộ trình thanh toán nhưng Công ty APV không
thực hiện đúng cam kết. Vì vậy, việc Công ty APV lấy lý do hồ sơ thanh toán
chưa đầy đủ là cố tình nại ra trách nhiệm thanh toán số tiền còn lại.

9
Trong vụ án này, Tòa án áp dụng nguyên tắc quy định tại khoản 3 Điều 3 Bộ
luật Dân sự 2015: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực” nhằm đảm bảo lẽ công
bằng cho các chủ thể tham gia ký kết giao dịch dân sự trong trường hợp một bên
cố tình vi phạm nghĩa vụ.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty MĐ,
buộc Công ty APV phải thanh toán số tiền nợ còn lại của Hợp đồng mua bán số
11A là 596.155.200 đồng là có căn cứ. Kháng cáo của Công ty APV về việc đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm là không có cơ sở chấp nhận.
Do Công ty MĐ không yêu cầu tính lãi suất nên Tòa án cấp sơ thẩm không
xem xét là có căn cứ.
Quan điểm của vị đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với tài liệu, chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án và trình bày của các đương sự nên Hội đồng xét xử chấp
nhận.
Căn cứ phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định không chấp nhận kháng
cáo của Công ty APV và quyết định giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty APV phải chịu
án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ các Điều 275, 398, 403, 434 Bộ luật dân sự 2015;
- Căn cứ Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều
280, khoản 3 Điều 284, Điều 299, Điều 300, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
- Căn cứ Điều 24, Điều 50 và Điều 55 Luật Thương mại năm 2005.
- Căn cứ Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Cổ phần Đầu tư Xây dựng và
Thương mại APV. Xử:
1. Giữ nguyên quyết định của Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
18/2025/KDTM-ST ngày 31/3/2025 của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội.
2. Về án phí phúc thẩm:
Cổ phần Đầu tư Xây dựng và Thương mại APV phải nộp số tiền án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) (đã nộp theo biên
10
lai thu tạm ứng án phí số 0037252 ngày 06/5/2025 tại Chi Cục Thi hành án dân
sự quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội).
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành
án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thi thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND TP Hà Nội;
- TAND Khu vực 2;
- Phòng THADS Khu vực 2;
- Các Đương sự;
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN
Bùi Đức Bằng
11
Thành viên Hội đồng xét xử
Trần Anh Tuấn Tống Quốc Thanh
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Bùi Đức Bằng
12
13
14
15
16
Nơi nhận:
-VKSND TP Hà Nội;
- TAND Q. Cầu Giấy;
- Chi cục THADS Q. Cầu Giấy;
- Các Đương sự;
- Lưu Hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN
Bùi Đức Bằng
17
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng