Bản án số 190/2025/DSPT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 190/2025/DSPT

Tên Bản án: Bản án số 190/2025/DSPT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 190/2025/DSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 190/2025/DS-PT
Ngày 15 5 2025
V/v tranh chấp chia thừa kế
quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Phương Loan.
Bà Châu Minh Hoàng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Bằng Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Từ
Thanh Thùy Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Mau xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số: 49/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 02
năm 2025 về việc yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự thẩm số: 408/2024/DS-ST ngày 26 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 101/2024/QĐ-PT ngày
24 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bà Mai Thị T, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Ấp I, xã K, huyện T, Cà Mau.
Người đại diện theo uquyền của T: Ông Trần Công H, sinh năm 1954,
Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của T: Luật Thanh T1
Văn phòng L4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (có mặt).
- Bị đơn:Mai Thị Bích N, sinh năm 1989 (có mặt).
Địa chỉ: ấp I, xã K, huyện T, Cà Mau.
Ngưi bo v quyn và li ích hp pháp ca bà N: Luật sư Nguyễn Văn M
Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn M, thuc Đoàn Luật sư tỉnh C (có mt).
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Mai Văn Đ. Sinh năm: 1961. Người đại diện hợp pháp của ông Đ
Mai Thị Bích N, sinh năm 1989. Địa chỉ: ấp I, xã K, huyện T, Cà Mau (có mặt).
2
2. Bà Mai Ngọc T2. Sinh năm: 1964 (vắng mặt).
3. Bà Mai Thị Ánh . Sinh năm: 1964 (văng mặt).
4. Bà Mai Thị T3. Sinh năm: 1954 (vắng mặt).
5. Bà Mai Thị Thu H1, sinh năm 1984
6. Ông Mai Hà A, sinh năm 1991
Người đại diện theo uquyền của bà H1, ông A: Mai Thị ch N, sinh
năm 1989 (có mặt).
Cùng địa chỉ: ấp I, xã K, huyện T, Cà Mau.
7. Bà Mai Thị N1. Sinh năm: 1955 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau.
8. Bà Mai Thị L (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện T, Cà Mau.
9. Bà Mai Thị T4. Sinh năm: 1956 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp A C, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau.
10. Bà Mai Thị Ngọc C, sinh năm 1964 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp B, xã H, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
11. Ông Mai Hồng Q, sinh năm 1966 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
12. Ông Mai Hữu K, sinh năm 1968 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp B, xã C, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
13. Ông Mai Hồng B, sinh năm 1974 (xin vắng mặt).
14. Bà Mai Thị Ngọc M1, sinh năm 1976 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
15. Bà Mai Thị Thu H2, sinh năm 1978 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp S, xã D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
16. Ông Mai Văn D, sinh năm 1980 (vắng mặt).
17. Bà Trần Thị Ú, sinh năm 1937 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp R, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
18. Ông Mai Hữu Đ1, sinh năm 1986 (xin vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp V, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
3
19. Ông Trần Thanh L1, sinh năm 1962 (vắng mặt).
20. Bà Trần Mỹ H3, sinh năm 1966 (vắng mặt).
21. Bà Trần Mỹ H4, sinh năm 1968 (vắng mặt).
22. Bà Trần Thị Đ2, sinh năm 1970 (vắng mặt).
23. Ông Trần Thanh K1, sinh năm 1974 (vắng mặt).
24. Bà Trần Tuyết S, sinh năm 1979 (vắng mặt).
25. Ông Trần Văn D1, sinh năm 1982 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người kháng cáo: Bà Mai Thị T là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung ,nguyên đơn Mai Thị T trình
bày:
Về nguồn gốc đất của cụ Mai Hiền L2 Trần Thị B1 được ông cho
phần đất diện tích 40.570m², thửa số 330, 331, tờ bản đồ số 12, tại ấp I, K,
huyện T, tỉnh Mau. Được cấp giấy chứng nhận QSDĐ vào ngày 15/5/1992 do
ông Mai Hiền L2 đứng tên. Cha, mẹ bà quản lý đến ngày 26/3/1993 cha chết, phần
đất do mẹ chúng tôi quản lý canh tác. Đến ngày 28/7/2004, mẹ tôi chết.
Trước đây vào ngày 15/7/1998, mẹ tôi có lập “Biên bản thay từ dy chúc" phân
chia diện tích đất 40.570m² cho các con, cụ thể như sau:
- Vchồng Mai Văn Đ hưởng 03 công ruộng tầm 3m 03 công vườn tầm
3m.
- Trước đây khi cha mẹ còn sống sang bán cho con Huỳnh Văn Đ3
Mai Thị Á 10 công ruộng tầm 3m, hiện nay giữ nguyên không thay đổi. Đổi 01
công ruộng (tầm 3m) thành 01 công vườn (tầm 3m) mặt tiền. Vợ chồng Út Á1
nhận 09 công ruộng (tầm 3m) và 01 công vườn mặt tiền (tầm 3m).
- Sang nhượng cho Mai Ngọc T2 02 công vườn và 03 công ruộng. Tổng cộng
05 (năm) công tầm lớn với giá 10 (Mười) chỉ vàng 24k. Sang nhượng cho Mai Thị
T3 01 công vườn, 03 công ruộng. Tổng cộng 04 công tầm 3m, với giá 08 (Tám)
chỉ vàng 24k.
- Phần nuôi dưỡng mẹ già và phụng thờ. Mẹ có ý kiến ở với bà Mai Thị T, vợ
chồng T nhận nuôi dưỡng mẹ thờ phụng quản số đất hương hỏa còn lại.
Sau khi phân chia đất cho các con xong, phần của ai người đó quản lý, sử dụng
tách biệt cho đến nay, nhưng chưa tách bìa đỏ, chỉ có Huỳnh Văn Đ3 chồng Mai
Thị Á tách bìa đỏ. Bà nuôi dưỡng mẹ, phụng thờ và quản lý diện tích đất còn lại là
8.170m².
Hiện nay, Mai Thị Bích N con Mai Văn Đ ngang nhiên lấy diện tích đất
8.170m² của canh tác xây dựng 01 căn nhà tình thương diện tích ngang
4
khoảng 4m, dài khoảng 9m, diện tích chung khoảng 36m² trên phần đất này, với
do cho rằng đất này của ông, nội nên N cháu nội được quyền hưởng.
yêu cầu Ủy ban nhân dân xã K giải quyết nhưng không có kết quả.
Nay bà yêu cầu Tòa án công nhận “Biên bản thay từ dy chúc" ngày 15/7/1998
do mẹ bà là Trần Thị B1 lập. Buộc Mai Thị Bích N giao trả lại diện tích đất
hương hỏa còn lại là 8.170m² cho bà quản lý, sử dụng
- Tại các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án thể hiện tại phiên tòa b
đơn bà Mai Thị Bích N trình bày:
Tại Tờ nhượng quyền ông Mai Hiền L2 (ông nội của tôi) cho con trai Mai
Văn Đ con dâu Thị T6 phần đất ruộng 10 công tầm nhỏ 01 công tầm
lớn đất vườn để trồng trọt cất nhà phía mặt trời lặn. Đã được đại diện Ấp I
Tập Đoàn T10 xác nhận. Ngày 29/3/1996 Chtịch Ủy ban nhân dân huyện T
(chứng thực) kiểm tra bản sao này giống như bản chính, do Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện T Nguyễn Thanh L3 phụ trách Công chứng tên đóng
dấu của Ủy ban nhân dân huyện T. Theo quy định của pháp luật tại thời điểm Công
chứng này các Hợp đồng Giấy tờ đã được Công chứng có giá trị chứng cứ. Như
vậy, tại Tờ nhượng quyền này Ấp I Tập Đoàn T10 xác nhận được
Công chứng theo quy định của pháp luật Tờ nhượng quyền nói trên hợp tình,
hợp lý. Cha mẹ tôi đã quản và sử dụng đất này từ năm 1984 đến khi mẹ tôi chết
cha tôi mất năng lực hành vi dân sự (được Toà án nhân dân huyện Trần Văn
Thời tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự tại Bản án số: 12/2017/QĐSD-ST ngày
25/9/2017) tchị em chúng tôi quản và sử dụng đất này để thờ cúng ông nội,
bà nội, 02 liệt sỹ, mẹ và nuôi cha tôi đã mất năng lực hành vi dân sự.
Cha mẹ tôi đã được ông nội tôi ông L2 cho đất sdụng ổn định, liên tục,
lâu dài từ năm 1984 cho đến nay và đã được Công chứng hợp pháp. Do đó, về mặt
pháp luật phải công nhận phần đất này của cha mẹ tôi được tặng cho. Mọi biến
động phần đất này không được chị em tôi đồng ý đgiao cho người khác quản
lý là không đúng quy định của pháp luật. Quá trình quản lý sử dụng đất gia đình tôi
đã làm tròn nghĩa vụ thờ phụng ông đã xây nhà mồ hoàn thiện cho ông
xong. Do đó, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mai Thị L, Mai Thị T4 trình
bày:
Về nguồn gốc đất, thành phần gia đình, diễn biến tranh chấp đất đúng như bà
T trình bày.
Về biên bản thay tờ di chúc ngày 16/7/1998 trực tiếp tham gia, thành
phần, nội dung trong biên bản này hoàn toàn đúng sự thật, còn lại 05 người đều
được phân chia đất của cha mẹ hết, chia theo di chúc có: Tám, T3, Á, T2, Đ.
Hiện tại những người này đã nhận được đất từ lúc có tờ di chúc, riêng phần đất của
bà T tranh chấp đến nay, bà không có yêu cầu được nhận di sản thừa kế của cha
mẹ, do chồng bên chồng đất nên không nhận đất để lại cho anh
em khác. Bà L bà T4 đồng ý theo việc bà T đi kiện đòi lại 8.170m
2
.
5
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị Á trình bày:
Vào ngày 15/7/1998 mẹ ruột tôi Trần Thị B1 tổ chức cuộc họp gia đình
thân tộc có lập "Biên bản thay Tờ dy chúc", tại nhà mẹ tôi thuộc xóm A, ấp I, xã K,
tôi có tham dự cuộc họp này, cuộc họp nhiều nội dung, trong đó việc phân
chia đất cho các con; ý kiến của mẹ tôi với T (Mai Thị T), vợ chồng T
nhận nuôi dưỡng mẹ, phụng thờ quản số đất hương hỏa. Ngày 04/4/2004, tại
nhà mẹ tôi là Trần Thị B1 có tổ chức cuộc họp thân tộc (có lập Biên bản), nội dung
là: Phần đất đai đã phân chia theo Tờ Di chúc không thay đổi. Tuy nhiên phần thờ
cúng cha mẹ hai người anh liệt Mai Ngọc C1 Mai Ngọc T5, đất hương
hỏa theo lời Di chúc giao cho con là Mai Thị T, nay chuyển quyền lại cho Mai Văn
Đ. Vợ chồng Mai Văn Đ Thị Hoa T6 thờ cúng cha mẹ, hai anh liệt sĩ, quản
lý nhà cửa, mồ mã, đất đai hương hỏa không được quyền sang nhượng.
Ngày 06/7/2023, tôi tham dự cuộc họp thân tộc, nội dung cuộc họp
thống nhất phần đất hương hỏa (đất đang tranh chấp hiện nay giữa T với N)
để cho ông Mai Văn Đ hưởng và thờ cúng, không ai xâm phạm.
Hiện nay, bà Mai Thị Bích N đang thờ cúng: 02 liệt sĩ là Mai Ngọc C1 và Mai
Ngọc T5, ông Mai Hiền L2, Trần Thị B1 quản phần đất đang tranh chấp.
Bà N đã cất nhà mồ cho ông L2 và bà B1, với số tiền gần 140.000.000 đồng.
vậy, tôi đề nghị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, bác toàn bộ nội
dung đơn khởi kiện của bà Mai Thị T và giữ nguyên hiện trạng phần đất tranh chấp
cho bà Mai Thị Bích N để thờ cúng ông L2, bà B1, ông C1 và ông T5. Đây là ý chí
của mẹ tôi lúc còn sống là ai thờ cúng thì được hưởng phần đất hương hỏa.
- Tại các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Mai Thị N1 trình bày:
Vào ngày 15/7/1998 mẹ ruột tôi Trần Thị B1 tổ chức cuộc họp gia đình
thân tộc lập “Biên bản thay Tờ dy chúc", tại nhà mẹ tôi thuộc m A, ấp I,
K, tôi có tham dự cuộc họp này, cuộc họp có nhiều nội dung, trong đó có việc phân
chia đất cho các con; ý kiến của mẹ tôi với T (Mai Thị T), vợ chồng T
nhận nuôi dưỡng mẹ, phụng thờ và quản lý số đất hương hỏa.
Ngày 04/4/2004, tại nhà mẹ tôi Trần Thị B1 tổ chức cuộc họp thân tộc
(có lập Biên bản), nội dung là: Phần đất đai đã phân chia theo tờ Di chúc không
thay đổi. Tuy nhiên phần thờ cúng cha mẹ hai người anh liệt Mai Ngọc C1
Mai Ngọc T5, đất hương hỏa theo lời Di chúc giao cho con Mai Thị T, nay
chuyển quyền lại cho Mai Văn Đ. Vợ chồng Mai Văn Đ Thị Hoa T6 thờ
cúng cha mẹ, hai anh liệt sĩ, quản nhà cửa, mồ mà, đất đai hương hỏa không
được quyền sang nhượng.
Ngày 06/7/2023, tôi tham dự cuộc họp thân tộc, nội dung cuộc họp
thống nhất phần đất hương hỏa (đất đang tranh chấp hiện nay giữa bà T7 với bà N)
để cho ông Mai Văn Đ hưởng và thờ cúng, không ai xâm phạm.
6
Hiện nay, bà Mai Thị Bích N đang thờ cúng: 02 liệt sĩ là Mai Ngọc C1 và Mai
Ngọc T5, ông Mai Hiền L2, Trần Thị B1 quản phần đất đang tranh chấp.
Bả N2 đã cất nhà mỗ cho ông L2 và bà B1, với số tiền gần 140.000.000 đồng.
vậy, tôi kinh đnghị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, bác toàn bộ
nội dung đơn khởi kiện của Mai Thị T và ginguyên hiện trạng phần đất tranh
chấp cho bà Mai Thị Bích N để thờ cúng ông L2, bà B1, ông C1 và ông T5. Đây là
ý chí của mẹ tôi lúc còn sống là ai thờ cùng thì được hưởng phần đất hương hỏa.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn D1 trình bày tại biên
bản ghi lời khai ngày 12/10/2024:
Thị R con riêng của cụ Trần Thị B1, Thị R chết năm 2021,
chồng ông Trần Hồng T8, chết năm 2001. Bà R ông T8 những người con:
Trần Thanh L1, sinh năm 1962, Trần Mỹ H3, sinh năm 1966, Trần Mỹ H4, sinh
năm 1968, bà Trần Thị Đ2, sinh năm 1970, ông Trần Thanh K1, sinh năm 1974, bà
Trần Tuyết S, sinh năm 1979, ông Trần Văn D1, sinh năm 1982, cùng địa chỉ
thường trú tại ấp H, K, huyện T, tỉnh Mau. Ông D1 không yêu cầu
trong vụ án này, ông D1 ý kiến giữ nguyên phần đất đang tranh chấp cho ông
Mai Văn Đ quản sử dụng phía ông Mai Văn Đ các con của ông Đ đã làm
tròn nghĩa vụ thờ cúng làm nhà mồ cho tổ tiên. Ông D1 yêu cầu Toà án xét x
vắng mặt ông.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Hồng B, ông Mai Hữu Đ1
trình bày tại biên bản ghi lời khai ngày 11/10/2024:
Ông Mai Hữu Q1, sinh năm 1934 là con riêng của cụ Mai Hiền L2, ông Q1
chết ngày 29/4/2021, có vợ Trần Thị Ú, sinh năm 1937 hiện đang sống cùng với
ông Mai Văn D, ông Q1 Ú những người con: Mai Thị Ngọc C, sinh
năm 1964, ông Mai Hồng Q, sinh năm 1966, ông Mai Hữu K, sinh năm 1968, ông
Mai Hồng B, sinh năm 1974, Mai Thị Ngọc M1, sinh năm 1976, Mai Thị
Thu H2, sinh năm 1978, ông Mai Văn D, sinh năm 1980, ông Mai Hữu Đ1, sinh
năm 1986 (có địa chỉ cụ thể từng người kèm theo). Ông B và ông Đ1 không đồng ý
với việc Mai Thị T khởi kiện Mai Thị Bích N, Mai Thị T đã được cụ
M2 Hiền Lương tặng cho phần đất phía sau hậu giáp Kênh Cả Tàu, theo ông Đ1
ông B được biết phần đất đang tranh chấp của cụ M2 Hiền Lương tặng cho ông
Mai Văn Đ ông Đ con trai út lo thờ cúng tổ tiên phần nhà ông Đ đang
nhà tình nghĩa, trong vụ án này ông B, ông Đ1 không yêu cầu xin Toà án
xét xử vắng mặt.
Tại bản án dân sự thẩm số 408/2024/ DS-ST ngày 26/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Trần Văn Thời tuyên xử:
1. Tuyên Xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Mai
Thị T về việc yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất phần đất có diện tích theo đo
đạc thực tế 8.374,2m
2
vị trí s thửa 7 theo bản đo vẽ, tờ bản đồ số 7 (bản đồ địa
chính thành lập năm 2008), tọa lạc tại ấp I, K, huyện T, tỉnh Mau do bị đơn
Mai Thị Bích N đang quản lý.
7
(Có trích đo hiện trạng ngày 26/9/2022 của Chi nhánh Công ty TNHH T11
kèm theo).
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị T yêu
cầu bà Mai Thị Bích N trả lại phần đất nền nhà có diện tích 36m
2
.
Ngoài ra án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án pquyền kháng
cáo.
Ngày 09/01/2024, Mai Thị T kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện đơn
kháng cáo.
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Căn
cứ vào tờ di chúc ngày 15/7/1998 dương lịch, cụ B1 đã giao phần đất đang tranh
chấp cho T, đây di chúc hợp pháp xác nhận của chính quyền địa phương.
Xét tnhượng đất của cụ M2 Hiền Lương do bị đơn cung cấp không sở,
bởi ldiện tích đất của bị đơn quản hiện tại không phù hợp, chữ viết chữ
trong tờ nhượng đất này không phải của cụ L2. Nguyên đơn yêu cầu giám
định chữ của cụ L2 thì bị đơn không đồng ý, diện tích đất của N đang quản
không tranh chấp cũng gần 8.000m
2
, ông Đ bị bệnh thì trách nhiệm nuôi
dưỡng của con cái, còn đất của cụ B1 cho bà T thì phải để cho T. Ý nguyện của
cụ B1 là bà T phải lo thờ ng thì phải thực hiện theo di chúc, yêu cầu Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T.
- Bị đơn yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Vị trí đất
cụ L2 cho đất ông Đ vẫn không thay đổi so với phần đất hiện tại bị đơn
quản lý, việc tặng cho đất là có diễn ra và tại tờ nhượng đất có chữ ký xác nhận của
chính quyền địa phương ông Võ Văn Đ4 là trưởng ấp I Toà án đã xác minh làm
việc với ông Đỗ Đ5, ông Đ5 cho biết việc tặng cho đất của cụ L2 cho ông Đ là cha
của bị đơn diễn ra dựa trên sự tự nguyện của cụ L2, di chúc của phía
nguyên đơn cung cấp là không hợp pháp do thiếu người thừa kế của cụ L2, cụ B1,
phần đất phân chia thừa kế đã được cụ Lương tặng cho ông Đ rồi lại đem đi
phân chia thừa kế nữa, ông Đ con trai út lo hương khói thờ cúng tổ tiên nên
được thừa hưởng phần đất này phù hợp, nguyên đơn đã được cụ Lương T9 cho
phần đất khác rồi, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử ngừng phiên tòa để tiến hành
giám định tờ nhượng đất giữa cụ L2 cho đất ông Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
8
[1] Xét kháng cáo của nuyên đơn còn trong thời hạn luật định. Nội dung
kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn.
[2] Xét thấy cụ ông Mai Hiền L2 chết năm 1993, cụ bà Trần Thị B1 chết
năm 2004, nguyên đơn khởi kiện ngày 08/3/2022 thì thời hiệu người yêu cầu chia
di sản 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế, do đó vẫn còn
thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế.
Xét yêu cầu của nguyên đơn, nhận thấy: Căn cứ vào đơn khởi kiện của
nguyên đơn, lời khai của bị đơn, người liên quan trong vụ án thì: Cụ L2 chết không
để lại di chúc. Cụ bà Trần Thị B1 lập “Biên bản thay tờ di chúc” ngày
15/7/1998.
Theo đơn khởi kiện nguyên đơn: Yêu cầu công nhận biên bản thay tờ di
chúc ngày 15/7/1998 giao phần đất hương hỏa cho nguyên đơn yêu cầu bị đơn
di dời kiến trúc căn nhà, trả đất ngang 4m x dài 9m diện tích 36m
2
.
Vào ngày 05/9/2023, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn thay đổi
nội dung khởi kiện, rút lại yêu cầu đối với bị đơn về việc di dời nhà trả đất ngang
4m x dài 9m diện tích 36m
2
. Án sơ thẩm đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện này của
nguyên đơn là phù hợp.
[3] Nguyên đơn yêu cầu công nhận biên bản thay tdi chúc ngày 15/7/1998
do Trần Thị B1 lập cho nguyên đơn được hưởng phần hương quả. Diện tích đất
hương hoả còn lại sau khi đã trừ phần của các anh chị em so với giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất 8.170m
2
nguyên đơn được hưởng, yêu cầu buộc bị đơn giao
trả theo diện tích đo đạc thực tế tại thửa số 7 diện tích 8.374,2m
2
, thuộc một
phần trong quyền sử dụng đất số B 067402 thửa số 331 tờ bản đồ số 12 do cụ Mai
Hiền L2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Về hàng thừa kế theo pháp luật của cụ Mai Hiền L2 và cụ Trần Thị B1:
Cha mẹ của cụ L2 và cụ B1 đã chết những người con chung của cụ L2 và cụ
B1 gồm: Bà Mai Thị T, sinh năm 1952, bà Mai Thị T3, sinh năm 1954, bà Mai Thị
N1, sinh năm 1955, Mai Thị T4, sinh năm 1956, Mai Thị L, sinh năm 1960,
ông Mai Văn Đ, sinh năm 1961, Mai Thị Á, sinh năm 1964, Mai Ngọc T2,
sinh năm 1964.
Con riêng của cụ Mai Hiền L2: Ông Mai Hữu Q1, sinh năm 1934, chết ngày
29/4/2021.
Con riêng của cụ Trần Thị B1: Bà Lư Thị R, chết năm 2021.
[4] Cụ M2 Hiền Lương đứng tên quyền sử dụng đất thửa số 330, 331 tờ bản
đồ số 12 diện tích 40.570m
2
. Trong đó phần đất vườn, ruộng đã chuyển nhượng
cho Mai Thị T3 đang quản sdụng theo đo đạc thực tế 5.182m
2
không
tranh chấp, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chuyển nhượng
cho bà Mai Thị Á, ông Huỳnh Văn Đ3 01 công vườn và 09 công ruộng tầm 3m, đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Chuyển nhượng cho Mai Ngọc
9
T2 02 công đất vườn, 03 công đất ruộng theo đo vẽ tại thửa số 6 diện tích
5.184m
2
, không tranh chấp. Phần đất ông Mai Văn Đ được tặng cho bao gồm
đất vườn đất ruộng tại thửa số 2 thửa số 4 diện tích tổng diện tích
7.776m
2
, không có tranh chấp.
[5] Phần đất tranh chấp còn lại tại thửa số 7 diện tích là 8.374,2m
2
phần đất trồng lúa không công trình kiến trúc trên đất, hiện nay do phía bị đơn
Mai Thị Bích N là con của ông Mai Văn Đ đang quản lý, sử dụng.
Bị đơn cung cấp cho T án “Tờ nhượng quyền sử dụng đất” ngày
12/4/1984 dương lịch nội dung: “Thưa quí ông: Tháng hai âm lịch vừa rồi tôi
đã cưới vợ cho con trai tôi là Mai Hữu Đ6 và tháng tư này tôi cho hai vợ chồng nó
ra riêng. Tôi cho quyền vợ chồng con trai tôi 10 công tầm nhỏ ruộng canh tác lúa
một công tầm lớn vườn để trồng trọt cất nhà phía mặt trời lặn…” xác
nhận của chính quyền địa phương trưởng ấp I tập đoàn T10 ông Đỗ Đ5 và
Toà án có tiến hành xác minh ông Đỗ Đ5 thì ông Đ5 thừa nhận có ký xác nhận vào
tờ tặng cho đất của cụ L2 cho đất ông Đ6, việc tặng cho đất này là có và dựa trên ý
chí tự nguyện của cụ L2.
Việc tặng cho đất này được thực hiện trước khi cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 15/5/1992. Sau khi được tặng cho đất thì ông Đ6 quản lý sử dụng
phần đất này và sau đó giao cho bị đơn quản lý sử dụng cho đến nay. Do đó, “Biên
bản thay tờ di chúc” ngày 15/7/1998 của nguyên đơn cung cấp không hiệu
lực pháp luật.
Theo lời Mai Thị Á, Mai Thị N1 cho theo tờ di chúc phần thờ cúng
cha mẹ và hai người anh liệt sĩ giao cho Mai Thị T nhưng đã chuyển quyền lại cho
vợ chồng Mai Văn Đ Thị Hoa T6 quản lý, thờ cúng không được chuyển
nhượng sang bán.
Mặt khác, ông Mai Văn Đ con trai út, theo phong tục tập quán và truyền
thống thì con trai sẽ lo việc thờ phụng hương khói cho ông bà, cha mẹ nên phần đất
được tặng cho sẽ nhiều hơn những chị em khác là phù hợp.
Tại tờ biên bản thay tờ di chúc hoàn toàn không nói về việc cho T phần
đất nào chỉ nói “nói chế T nuôi mẹ quản số đất hương quả” nhưng trên
thực tế từ trước tới nay cụ Ba chung sống với ông Đ, bà T6 cho đến khi bà B1 chết,
tại a nguyên đơn yêu cầu giám định tờ nhượng đất của cụ L2 năm 1984 nhưng
bản thân nguyên đơn cũng không cung cấp chứng cứ tài liệu gì để chứng minh,
hơn nữa việc giám định tờ nhượng đất của cụ L2 cho con ông Đ cũng không
ý nghĩa và trên thực tế ông Đ, T6 đã sử dụng quản từ trước đến nay khi cụ
L2, cụ B1 còn sống chung với ông Đ, bà T6.
Nguyên đơn Mai Thị T chị cả trong gia đình cũng đã được cụ L2 cụ
B1 tặng cho phần đất khác, phía sau hậu phần đất tranh chấp. Tại phiên tòa nguyên
đơn không đưa ra chứng cứ tài liệu mới đchứng minh cho việc kháng cáo nên
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
10
[6] Đối vi đề ngh ca Đại din Vin kim sát nhân n đề nghị ngừng
phiên tòa để tiến hành giám định. Xét thấy như nhận trên, việc giám định cũng
không ý nghĩa, hơn nữa chữ viết từ năm 1984 đến nay. Các bên đương sự
cũng không thể nào cung cấp tài liệu mẫu chữ để tiến hành giám định, việc ngừng
phiên tòa là không cần thiết nên không được chp nhn.
[7] Chi phí t tng: Nguyên đơn Mai Thị T dự nộp các chi phí tố tụng
trong quá trình xem xét giải quyết vụ án và đã thực hiện xong bao gồm chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ chi phí đo đạc với số tiền 12.885.000 đồng, chi phí định
giá 8.022.300 đồng, tổng cộng chi phí tố tụng 20.907.300 đồng, do yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận, nên nguyên đơn bà Mai Thị T
phải chịu toàn bộ, nguyên đơn đã dự np xong.
[8] Về án phí dân sự sơ thẩm án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn
Mai Thị T người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn đơn xin miễn án phí
nên không phải nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn: Bà Mai Thị T.
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 408/2024/DS-ST ngày 26 tháng 12
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời:
T:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị T về việc
yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là
8.374,2m
2
vị trí số thửa 7 theo bản đo vẽ, tờ bản đồ số 7 (bản đồ địa chính thành
lập năm 2008), tọa lạc tại ấp I, K, huyện T, tỉnh Mau do bđơn Mai Thị
Bích N đang quản lý.
(Có trích đo hiện trạng ngày 26/9/2022 của Chi nhánh Công ty TNHH T11
kèm theo).
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Mai Thị T yêu
cầu bà Mai Thị Bích N trả lại phần đất nền nhà có diện tích 36m
2
.
2. Chi phí t tụng 20.907.300 đồng, do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
không được chấp nhận, nên nguyên đơn Mai Thị T phải chịu toàn bộ, nguyên
đơn đã dự np xong.
3. Án phí dân s sơ thẩm án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn Mai
Thị T người cao tuổi đã được miễn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và phúc
thẩm.
11
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- Tòa án tỉnh Cà Mau;
- VKSND huyện Trần Văn Thời;
- Chi cục THADS huyện Trần Văn Thời;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẤM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
Tải về
Bản án số 190/2025/DSPT Bản án số 190/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 190/2025/DSPT Bản án số 190/2025/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất