Bản án số 18/2024/DS ngày 15/04/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 18/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 18/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 18/2024/DS
Tên Bản án: | Bản án số 18/2024/DS ngày 15/04/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Bình |
Số hiệu: | 18/2024/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/04/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Nguyễn Văn Ph tranh chấp đất với ông NGuyễn Văn Th |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 18/2024/DS - ST
Ngày: 15 - 4 - 2024
V/v đòi lại đất và yêu cầu
huỷ GCNQSDĐ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Mai Văn Ngọc
Ông Nguyễn Hữu Thiện
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Hương Giang – Thẩm tra viên, Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên
toà: Bà Chế Thị Bích Thuỷ - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 4 năm 2024, tại phòng xét xử án dân sự Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
139/2023/TLST - DS ngày 28 tháng 12 năm 2023, về đòi lại đất và yêu cầu huỷ
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
55/2024/QĐXXST- DS ngày 29 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
+ Ông Trần Văn P, sinh năm 1964; bà Hồ Thị Q, sinh năm 1962
+ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1967, bà Hồ Thị Thu H, sinh năm 1972
Các nguyên đơn ở địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng
Bình; có mặt
- Bị đơn: Ông Trần Ngọc T1, sinh năm 1952; bà Nguyễn Thị D, sinh năm
1954
Địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vụ án:
+ UBND huyện B, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt
+ UBND thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.
+ Ông Lê Văn S, sinh năm 1967; bà Hồ Thị H1, sinh năm 1966
Địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; bà H1 có
mặt, ông S vắng mặt.
+ Cụ Nguyễn Thị N, sinh năm 1939
Địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

2
+ Những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn Xuân
D1 (Chết): Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1964; ông Nguyễn Văn T, sinh năm
1967; bà Nguyễn Thanh Q1, sinh năm 1972; ông Nguyễn Văn T2, sinh năm
1977; điều trú tại: Tổ dân phố P, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; ông T có
mặt, bà A, bà Q1 và ông T2 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, tại phiên tòa ông
Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Thu H và người bảo vệ quyèn và lợi ích hợp pháp của
ông T, bà H (viết tắt là nguyên đơn 1) trình bày: Nguyên đơn đang sử dụng,
canh tác một phần trên thửa đất số 126 tờ bản đồ số 91 thị trấn P, huyện B, từ
năm 1989 cho đến nay; nguồn gốc thửa đất này là của vợ chồng cụ Nguyễn Thị
N, cụ Nguyễn Xuân D1 được Hợp tác xã Phong Nha giao đất gieo mạ, sau đó cụ
N, cụ D1 giao lại cho vợ chồng nguyên đơn ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Thu
H sử dụng; năm 2014 nguyên đơn tự đổi đất bằng miệng cho ông P, bà Q ½ diện
tích và cùng sử dụng cho đến nay. Năm 2013, thực hiện dự án đo đạc để cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) cho các hộ gia đình.
Sau khi được giao GCNQSDĐ nguyên đơn thấy diện tích đất mạ nguyên đơn sử
dụng liền kề với thửa đất của ông Trần Ngọc T1 không được giao trong
GCNQSDĐ của gia đình mình. Sau khi kiểm tra cụ thể trên bản đồ địa chính thì
được biết thửa đất nguyên đơn 1 đang sử dụng đã được UBND huyện B cấp
trong GCNQSDĐ số BX 098441 ngày 31/12/2014 cho ông Trần Ngọc T1, bà
Trần Thị D2, tại thửa đất số 126 tờ bản đồ số 91 thị trấn P. Để bảo vệ quyền lợi
của mình các nguyên đơn yêu cầu ông Trần Ngọc T1, bà Trần Thị D2 trả lại
360m
2
đất (bao gồm diện tích đất nguyên đơn 1 đã đổi cho ông P, bà Q) tại thửa
đất số 126 tờ bản đồ số 91 thị trấn P, hụyen B; huỷ GCNQSDĐ số BX 098441,
ngày 31/12/2014 của UBND huyện B cấp ông Trần Ngọc T1, bà Trần Thị D2.
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, tại phiên tòa ông Trần
Văn P, bà Hồ Thị Q và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của ông P,
bà Q (viết tắt là nguyên đơn 2) trình bày: Năm 2014 ông T, bà H (nguyên đơn 1)
đổi đất bằng miệng cho nguyên đơn ½ diện tích đất (180/360m
2
đất) tại một
phần thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S (nay là một phần thửa đất số 126, tờ
bản đồ số 91 thị trấn P) và nguyên đơn 2 sử dụng đất cho đến nay. Sau khi kiểm
tra cụ thể trên bản đồ địa chính thì được biết thửa đất nguyên đơn 2 đang sử
dụng đã được UBND huyện B cấp trong GCNQSDĐ số BX 098441 ngày
31/12/2014 cho ông Trần Ngọc T1, bà Trần Thị D2; tại thửa đất số 126 tờ bản
đồ số 91 thị trấn P. Để bảo vệ quyền lợi của mình nguyên đơn 2 yêu cầu ông
Trần Ngọc T1, bà Trần Thị D2 trả lại khoảng 180m
2
đất tại thửa đất số 126 tờ
bản đồ số 91 thị trấn P, huyện B; huỷ GCNQSDĐ số BX 098441, ngày
31/12/2014 của UBND huyện B cấp ông Trần Ngọc T1, bà Trần Thị D2.
Tại Đơn trình bày ngày 22/01/2024, biên bản hoà giải và tại phiên toà ông
Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D (viết tắt là bị đơn) trình bày: Trước năm 1993
diện tích đất tranh chấp là đất mạ do Hợp tác xã N2 quản lý, gồm các thửa 435,
436, 437, 442, 443. Cuối năm 1993 Hợp tác xã Phong Nha giải thể, mô hình

3
thôn xóm thành lập, diện tích đất mạ nói trên chia lại cho các hộ dân trong thôn
để tiếp tục gieo mạ theo hình thức ruộng nhiều thì cấp nhiều diện tích, ruộng ít
thì cấp ít diện tích. Năm 1995 thực hiện việc gieo thẳng đạt năng suất cao hơn
cấy bằng mạ. Vì vậy, sau năm 1995 đến nay không còn gieo mạ, số đất mạ trở
thành đất hoang, nơi chăn nuôi trâu bỏ. Trong số diện tích đất bỏ hoang có một
số hộ sử dụng đất xây dựng nhà ở. Năm 2002, UBND xã S (nay là thị trấn P) và
toàn cấp uỷ thôn A P cùng toàn bộ Nhân dân thôn 1 P chuyển đổi đất mạ sang
đất nhà ở, đất trồng cây lâu năm cho con em trong thôn từ nhà anh Nguyễn Xuân
H2 đến ngã ba đường B Q. Năm 2003, Ủy ban nhân dân huyện B giải phóng cho
Công ty X xây dựng cây cau đã đồng thời di dời hai hộ ông Phạm Văn T3, Phạm
Văn T4 về ở tại thửa đất 436. Từ đó nhân dân trong thôn tự ý đổi đất cho nhau
dựng nhà trái phép trên đất gieo mạ nói trên, gồm 26 hộ, trong đó có bị đơn và
ông P.
Năm 2013, UBND huyện B và UBND xã sơn T (nay là thị trấn P) mời 26
hộ về tại UBND xã S để cho chuyển đổi từ đất nông nghiệp qua đất ở cho 26 hộ
và tỉnh giá đất gần ngang giá đấu thầu nên nhan dân không có tiền để nộp, hiện
26 hộ nói trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, giấy chứng
nhận hiện tại của thửa đất vẫn còn là giấy chứng nhận đất nông nghiệp. Thửa đất
số 437 được chia cho các hộ, gồm: Ông Nguyễn Văn H3; ông Trần ngọc T5;
ông Nguyễn Xuân D1; bà Hoàng Thị Đ; ông Nguyễn Văn D3 và ông phạm
Xuân T6. Theo thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S được duyệt năm 1997 có
diện tích 1413 m²; tại thửa đất này không có hộ ông Nguyễn Văn T và hộ ông
Trần Văn P. Sau đổi cho nhau, hộ ông H3 và ông M mối người chuyển đồi cho
bị đơn ½ diện tích; hộ bà Đ và hộ ông D3 chuyển đổi cho ông Trần Văn P và bà
Hồ Thị Q tại khu vực hiện nay ông bà đã làm nhà ở (Năm 2013, anh Trần Văn P
nhập phần đất của bà Đ và ông D3 từ thửa đất số 437 vào thửa đất 438 với diện
tích 1235 m² cùng với điện tích của thửa đất 438 nhập lại thành thửa đất số 111
với diện tích 1679,4 m² tại tờ bản đồ số 91 xã S), diện tích đất tranh chấp hiện
tai ông P, bà Q không có.
Diện tích đất của bị đơn khi đoàn đo đạc đến không có chủ hộ dẫn đạc,
hướng dẫn mốc ranh giới, dẫn đến đoàn đo đạc đã đo phần đất của ông Nguyễn
Xuân D1 (ông D1 là bố ông T nguyên đơn trong vụ án này) vào cùng với phần
đất của bị đơn tại thừa đất số 126, tờ bản đồ số 91 xã S với diện tích 807,4 m².
Lỗi này một phần là do đoàn đo đạc, một phần là người có đất. Sau khi nhận
GCNQSDĐ bị đơn thấy thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P của mình có
diện tích lớn hơn thực tế mình đang sử dụng nên đã báo cáo với UBND xã S
(nay là thị trấn P) để trả lại diện tích đất này. Thì bà Hồ Thị Q và Hồ Thị Thu H
đứng ra tự nhận số đất thừa là đất của mình. Bị đơn nhầm ông Nguyễn Xuân D1
đã chuyển số đất đó cho bà Hồ Thị Q và bà Hồ Thi Thu H4 nên hoà giải tại
UBND thị T, hai bên thống nhất về ranh giới, từ cột điện trở về phía trên tiếp
giáp với đường thôn xóm là của bị đơn, từ cột điện trở xuống tiếp giáp với đất
của ông P là đất của bà H4, ông T. Gia đình bị đơn đã xuống văn phòng một cửa
của UBND huyện B để làm thủ tục xin tách thửa nhưng văn phòng một cửa trả
lời thửa đất đã có nhà ở trên đất nên không tách thửa được gồm cả của bị đơn và
của ông P, bà Q. Qua đơn khởi kiện bị đơn mới biết, phần đất của ông Nguyễn

4
Xuân D1 đã chuyển cho con Nguyễn Văn T, Hồ Thị Thu H cả ruộng lẫn đất về
phần đất đã nhận khoán. Nay bị đơn xin trả lại toàn diện tích đất chồng lấn cho
gia đình ông Nguyễn Xuân D1.
Tại Biên bản ghi lời khai ngày 28 tháng 3 năm 2024 ông Lê Văn S và bà
Hồ Thị H1 trình bày: Năm 1988 vợ chồng ông bà được Hợp tác xã N2 cấp diện
tích 198m
2
(rộng 2 mét, dài 99 mét) tại vùng đất Phóc Đen, với tứ cận: Phía Bắc
giáp đường giao thông rộng 02 mét, phía Tây giáp dường đất (lối ngăn cách các
thửa đất), phía Đông giáp diện tích đất ông T5 và phía Nam giáp đường đất; vợ
chồng ông bà sử dụng gieo mạ đến năm 1993 thì không sử dụng đất nữa cho tới
nay và trở thành đất hoang (diện tích đất này sát đường nhỏ đi vào nhà ông bà).
Đường đi phía Tây đất gieo mạ của ông bà trước đây gọi là dường ngăn cách các
thửa đất (đường rất nhỏ) chỉ đi bộ. Qua tìm hiểu tại UBND thị trấn P và tại tờ
bản đồ số 91 thị trấn P được phê duyệt năm 2015 thì ông bà được biết đường đi
phía Tây thửa đất mạ của ông bà trước đây đã được quy hoạch đường đi rộng 4
mét (đã lấy đất mạ của gia đình ông bà để làm đường đi) nên gia đình ông bà
hiện nay không liên quan đến diện tích đất ông T5, bà D đã được cấp
GCNQSDĐ tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 xã S (nay là thị trấn P).
Tại văn bản thoả thuận giao đất lập ngày 25/3/2024 có chứng thực của
UBND thị trấn P, cụ Hoàng Thị N1 và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ
tố tụng của cụ Nguyễn Xuân D1 (Chết), gồm: Bà Nguyễn Thị A, ông Nguyễn
Văn T, bà Nguyễn Thanh Q1, ông Nguyễn Văn T2, trình bày: Năm 1988 cụ D1,
cụ N1 được Hợp tác xã N2 giao 360m
2
đất gieo mạ tại thửa đất số 437, tờ bản đồ
số 19 xã S (nay là thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P), năm 1994 hai cụ
giao cho ông Nguyễn Văn T, Hồ Thị Thu H sử dụng diện tích đất này cho đến
nay. Hiên nay cụ N1 và những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ D1
nhất trí giao cho ông Nguyễn Văn T, Hồ Thị Thu H được quản lý, sử dụng diện
tích 360m
2
đất gieo mạ tại thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S (nay là thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P).
Ủy ban nhân dân huyện B và Ủy ban nhân dân thị trấn P đã được triệu tập
hợp lệ nhưng không của người thạm gia tố tụng, không có ý kiến bằng văn bản
đối với việc khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, bị đơn
chấp nhận trả lại 330m
2
đất tại thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S (nay là thửa
đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P) cho nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật dân sự; Về nội dung: Đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn ông T, bà H và chấp nhân
sự thoả thuận của bị đơn về việc trả lại đất cho nguyên đơn ông T, bà H; không
chấp nhận toàn bộ việc khởi kiện của ông P, bà Q2; huỷ một phần GCNQSDĐ
số BX 098441 ngày 31/12/2014 của UBND huyện B cấp bị đơn tại thửa đất số
126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P; bị đơn là người cao tuổi nên được miễn án phí
dân sự sơ thẩm, nguyên đơn ông P, bà Q phải chịu án phí theo quy định; chấp
nhận sự tự nguyên của nguyên đơn về việc chịu toàn bộ chi phí tố tụng.

5
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn khởi kiện đòi lại đất và yêu cầu huỷ GCNQSDĐ số BX
098441 ngày 31/12/2014 của UBND huyện B cấp bị đơn tại thửa đất số 126, tờ
bản đồ số 91 thị trấn P; căn cứ khoản 4 Điều 34 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình.
[2] Tại phiên toà vắng mặt đại diện UBND huyện B, đại diện UBND thị
trấn Phong Nha và một số người liên quan vụ án, nhưng Toà án đã triệu tập hợp
lệ đến phiên toà lần thứ hai; theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 Toà án tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
[3] Nguyên đơn, bị đơn thừa nhận thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S,
có diện tích 1.413m
2
đất (nay một phần thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn
P, có diện tích 806,6m
2
đất), trước năm 1990 là đất gieo mạ do Hợp tác xã N2
quản lý, giao cho các hộ gia đình gieo mạ, trong đó có hộ ông Trần ngọc T5 và
hộ ông Nguyễn Xuân D1 (ông D1 là bố ông T nguyên đơn trong vụ án).
[4] Từ năm 1993, thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S các hộ không sử
dụng gieo mạ nữa (các hộ đã chuyển sang gieo sạ), nên diện tích đất này đa số
bỏ hoang, một số hộ dân tự ý đổi đất cho nhau để tiếp tục canh tác và sử dụng
vào mục đích khác nhau.
[5] Diện tích đất gieo mạ tại thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S (nay là
thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P, có diện tích 806,6m
2
đất), còn lại bị
đơn và ông T, bà H (là con cụ D1) đang sử dụng, diện tích đất còn lại tại thửa
đất này bị thu hồi làm đường, một số hộ đã tự chuyển đổi cho nhau làm nhà ở.
[6] Tại văn bản thoả thuận giao đất lập ngày 25/3/2024 của cụ Hoàng Thị
N1 và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn Xuân D1
(Chết) là bà Nguyễn Thị A, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thanh Q1, ông
Nguyễn Văn T2, thừa nhận năm 1989 cụ D1, cụ N1 được Hợp tác xã N2 giao
360m
2
đất gieo mạ tại thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S (nay là thửa đất số
126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P), năm 1991 hai cụ giao cho ông Nguyễn Văn T,
Hồ Thị Thu H sử dụng diện tích đất này cho đến nay. Hiên nay cụ N1 và những
người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ D1 nhất trí giao cho ông Nguyễn
Văn T, Hồ Thị Thu H được quản lý, sử dụng đất, tại thửa đất số 437, tờ bản đồ
số 19 xã S (nay là một phần diện tích thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P)
nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự thoả thuận này.
[7] Ngày 31 tháng 12 năm 2014 bị đơn được UBND huyện B cấp
GCNQSDĐ số BX 098441 tại 04 thửa đất, trong đó có thửa đất số 126, tờ bản
đồ số 91 thị trấn P, diện tích 806,6m
2
đất bằng trồng cây hàng năm (BHK). Quá
trình thu thập chứng cứ và tại phiên toà bị đơn thừa nhận đã cấp chồng lên diện
tích đất của nguyên đơn ông T, bà H đang sử dụng đất từ trước năm 1990 cho
đến nay, nên bị đơn tự nguyện trả lại diện tích đất cho nguyên đơn ông T, bà H;
việc bị đơn tự nguyện trả lại diện tích đất bị cấp chồng trong GCNQSDĐ của

6
UBND huyện B cấp cho bị đơn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc nên
Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện này.
[8] Quá trình thu thập chứng cứ theo yêu cầu cùa nguyên đơn, Toà án đã
tiến hành thẩm định thửa đất, theo đó thửa đất có diện tích 806,6m
2
đất tại các
điểm 1, 3, 4, 5, 7 và 9 trên sơ đồ; trên thửa đất có 01 nhà ở do bị đơn xây dựng
rộng 110,6m
2
đất, còn lại là đất sạch, nguyên đơn (ông P, bà Q) dựng bờ rào tạm
lấn chiếm 49,3m
2
đất tại các điểm 3, 4 và 5 trên sơ đồ.
[9] Tại phiên toà bị đơn thoả thuận trả lại 358m
2
đất tại thửa đất số 126, tờ
bản đồ số 91 thị trấn P cho nguyên đơn (ông T, bà H) tại các điểm 2, 3, 4, 7 và 8
trên sơ đồ; trong đó từ điểm 2 đến điểm 3 dài 5,51 mét; từ điểm 3 đến điểm 4 dài
41,81 mét; từ điểm 4 đến điểm 7 dài 17,33 mét; từ điểm 7 đến điểm 8 dài 2,37
mét và từ điểm 2 đến điểm 8 dài 58,10 mét. Bị đơn có 448,6m
2
đất tại thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P, ở các điểm 1, 2, 8 và 9 trên sơ đồ; trong đó từ
điểm 1 đến điểm 2 dài 7,89 mét; từ điểm 2 đến điểm 8 dài 58,10 mét; từ điểm 8
đến điểm 9 dài 8,02 mét và từ điểm 1 điến điểm 9 dài 56,85 mét.
[10] Việc nguyên đơn ông Trần Văn P, bà Hồ Thị Q yêu cầu bị đơn trả lại
180m
2
đất tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P và huỷ GCNQSDĐ số
BX 098441 của UBND huyện B cấp cho bị đơn thấy: Quá trình thu thập chứng
cứ và tại phiên toà ông P, bà Q thừa nhận ông bà không được giao đất gieo mạ
và không sử dụng đất tại thửa đất số 437, tờ bản đồ số 19 xã S (nay là thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P). Tuy nhiên năm 2014 ông bà đã đổi bằng
miệng cho ông T, bà H là nguyên đơn trong vụ án này 180m
2
đất tại thửa đất số
126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P, Hội đồng xét xử thấy việc đổi đất bằng miệng
của ông T, bà H và ông P, bà Q không đúng quy định nên không chấp nhận. Mặt
khác, diện tích đất ông T, bà H sử dụng tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị
trấn P có nguồn gốc của cụ D1, cụ N1 được Hợp tác xã giao đất gieo mạ từ năm
1989; ngày 25/3/2024 cụ N1 và những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng
của cụ D1 mới nhất trí giao toàn bộ diện tích đất này cho ông T, bà H. Do đó
việc thoả thuận đổi đất bằng miệng của ông T, bà H và ông P, bà Q là trái quy
định nên việc khởi kiện của P, bà Q không được chấp nhận; sau này ông T, bà H
được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích đất bị đơn trả lại thì giữa ông T, bà H và
ông P, bà Q có quyền thực hiện việc chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng
đất theo quy định pháp luật.
[11] Trong vụ án này ông Trần Văn S1, bà Hồ Thị H1 trình bày được giao
đất gieo mạ cạnh diện tích đất của bị đơn với diện tích 198m
2
(2 mét x 99 mét),
tuy nhiên ông S1, bà H1 không có đơn yêu cầu độc lập, không xuất trình được
tài liệu, chứng cứ về sử dụng diện tích đất này và tại biên bản ghi lời khai ngày
28/3/2024 ông S1, bà H1 thừa nhận diện tích đất gieo mạ của mình được giao đã
sử dụng là đường giao thông vào nhà mình nên không có tranh chấp với bị đơn.
Mặt khác, tại sổ mục kê đất đai lập ngày 24/11/2015 và phiếu giao nhận diện
tích đất lập ngày 15/8/2013 của ông S1, bà H1 thể hiện việc ông bà không được
giao diện tích đất cạnh thửa đất của bị đơn đang tranh chấp trong vụ án này.
[12] Đối với yêu cầu huỷ GCNQSDĐ số BX 098441 ngày 31/12/2014
của UBND huyện B cấp cho bị đơn thấy: Như phân tích ở trên thì GCNQSDĐ
số BX 098441 ngày 31/12/2014 của UBND huyện B cấp cho bị đơn tại 04 thửa

7
đất, trong đó có thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P đã cấp chồng lên
358m
2
đất nguyên đơn (ông T, bà H) đã sử dụng trước đó và bị đơn tự nguyện
trả lại diện tích đất này cho nguyên đơn. Do đó cần chấp nhận khởi kiện của
nguyên đơn để huỷ một phần GCNQSDĐ số BX 098441 ngày 31/12/2014 của
UBND huyện B liên quan đến 358m
2
đất thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị
trấn P, huyện B.
[13] Quá trình thu thập chứng cứ theo yêu cầu của nguyên đơn, Toà án đã
thành lập Hội đồng thẩm định, định giá chi phí tố tụng hết 6.200.000 đồng, tại
phiên toà các nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng; căn cứ Điều
157 và Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự
nguyện này (các nguyên đơn đã nộp đủ).
[14] Bị đơn là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí theo đúng quy định
tại Điều 12, Điều 14 của 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Toà án, nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm;
nguyên đơn (ông T, bà H) khởi kiện được chấp nhận nên không phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm; ông Trần Văn P, bà Hồ Thị Q3 khởi kiện không được chấp
nhận nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 4 Điều 34, Điều 157, Điều 165, khoản 1 Điều 227 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 96 và điểm b khoản 1 Điều 99, Điều 203
Luật đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 1, khoản 8
Điều 26 và điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm
án phí, lệ phí Tòa án; xử:
1. Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Trần Văn P, bà Hồ Thị Q về
việc yêu cầu ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D trả lại 180m
2
đất tại thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P, huyện B; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BX 098441 ngày 31/12/2014 của Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng
Bình cấp cho ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D.
2. Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Thu H về
việc yêu cầu ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D trả lại 358m
2
đất tại thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P, huyện B; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BX 098441 ngày 31/12/2014 của Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng
Bình cấp cho ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D.
3. Chấp nhận sự thoả thuận của ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D và
ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Thu H về việc ông T1, bà D trả lại cho ông T, bà
H quản lý, sử dụng 358m
2
đất tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P,
hụyen B; tại các điểm 2, 3, 4, 7 và 8 trên sơ đồ; trong đó từ điểm 2 đến điểm 3
dài 5,51 mét; từ điểm 3 đến điểm 4 dài 41,81 mét; từ điểm 4 đến điểm 7 dài
17,33 mét; từ điểm 7 đến điểm 8 dài 2,37 mét và từ điểm 2 đến điểm 8 dài 58,10
mét.

8
4. Ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D được quản lý, sử dụng 448,6m
2
đất tại thửa đất số 126, tờ bản đồ số 91 thị trấn P, huyện B, tại các điểm 1, 2, 8
và 9 trên sơ đồ; trong đó từ điểm 1 đến điểm 2 dài 7,89 mét; từ điểm 2 đến điểm
8 dài 58,10 mét; từ điểm 8 đến điểm 9 dài 8,02 mét và từ điểm 1 điến điểm 9 dài
56,85 mét (có sơ đồ thửa đất kèm theo bản án).
5. Huỷ một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 098441
ngày 31/12/2014 của Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình đã cấp cho
ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D, đối với 358m
2
đất tại thửa đất số 126, tờ
bản đồ số 91 thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình.
6. Chấp nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Thu H và
ông Trần Văn P, bà Hồ Thị Q về việc chịu toàn bộ 6.200.000 đồng chi phí tố
tụng (đã nộp đủ).
7. Ông Trần Ngọc T1, bà Nguyễn Thị D được miễn án phí dân sự sơ
thẩm; ông Nguyễn Văn T, bà Hồ Thị Thu H không phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm, được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên
lai số 0004767 ngày 21/12/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình;
ông Trần Văn P, bà Hồ Thị Q phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm,
được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại Biên lai số
0004768 ngày 21/12/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình (ông P,
bà Q đã nộp đủ án phí vụ kiện).
8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa biết
có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm
15/4/2024. Báo cho các đương sự vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản
án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TANDCC tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN - CHỦ TA PHIÊN TÒA
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh QB (P9);
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Các đương sự; (đã ký)
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
Nguyễn Văn Nghĩa

9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 22/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 07/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 06/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 26/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm