Bản án số 170/2025/DS-PT ngày 10/04/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 170/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 170/2025/DS-PT ngày 10/04/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Cần Thơ
Số hiệu: 170/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thị S - Trần Văn T - Đòi lại tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN N CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ CẦN THƠ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 170/2025/DS-PT
Ngày: 10.4.2025
V/v “Tranh chấp đòi lại tài sản”
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa: Bà Hà Thị Phương Thanh
Các thẩm phán: Ông Phạm Văn Bình
Ông Võ Bảo Anh
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Khương Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân thành phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ: Ông Trần Thanh
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 10 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
xét xử công khai vụ án thụ số 662/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng 12 năm 2024
về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 289/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s46/2025/QĐ-PT ngày 07
tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị S, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số A L, Phường
G, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp cho nguyên đơn: Dương Thị Y (Theo văn bản
ủy quyền ngày 09/3/2023). Địa chỉ: Số B đường số D, KDC H, khu V, phường A,
quận N, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
- Bị đơn:
1. Ông Trần Văn T, sinh năm 1919. (vắng mặt)
2. Bà Trần Thu H, sinh năm 1968. (có mặt)
3. Bà Phạm Trần Phương N, sinh năm 1995. (có đơn xin vắng mặt)
4. Ông Phạm Trần Thành Đ, sinh năm 2006. (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số B N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện hợp pháp cho ông Trần Văn T: Trần Thị N1, sinh năm
2
1957.
Địa chỉ: Thôn T, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông Trần Văn T:
Phương N2 Đoàn Luật sư thành phố C.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị D (con ông T). (vắng mặt)
2. Ông Vũ Kim N3, sinh năm 1988 (con bà D). (có mặt)
3. Bà Phạm Thị L, sinh năm 1989 (vợ ông N3). (có mặt)
4. Cháu Vũ Phạm Gia H1, sinh năm 2021.
5. Cháu Vũ Phạm Tuệ A, sinh năm 2023.
Người đại diện theo pháp luật của cháu H1 cháu Tuệ A: ông Kim N3
và bà Phạm Thị L (cha và mẹ của hai cháu).
Cùng địa chỉ: Số B, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
6. Ông Phạm Thế D1, sinh năm 1966. (có đơn xin vắng mặt)
Địa chỉ: số C, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
7. Ông Trần Văn H2, sinh năm 1963. (có mặt)
Địa chỉ: Số A L, phường G, quận G, thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo:
1. Ông Trần Văn T, bà Trần Thu H là bị đơn.
2. Ông Vũ Kim N3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Ông Trần Văn H2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn bà S trình bày nội dung và yêu cầu khởi kiện như sau: Nhà
đất tọa lạc tại số B, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ thuộc thửa
đất số 163, tờ bản đồ số 11, diện tích 198,1m², Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng dụng đất số 5401141011 (hồ gốc số: 11/2001) do UBND
tỉnh C (cũ) cấp ngày 16/10/2001; Nhà đất tọa lạc tại số C, đường N, phường H,
quận N, thành phố Cần Thơ) thuộc thửa đất số 209, tờ bản đồ số 10, diện tích
89,8m², Giấy chứng nhận quyền sở hữu n quyền sử dụng dụng đất số
5401141523 (hồ sơ gốc số: 23/2002) do UBND tỉnh C (cũ) cấp ngày 21/10/2002 là
do ông Trần Văn H2 tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, vào
năm 2015 ông H2 đã thuận tình ly hôn theo Quyết định số 67/2015/QĐST-
HNGĐ-CNTT ngày 12/5/2015 của TAND Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Về tài
sản chung các bên thống nhất tự phân chia.
Ngày 25/5/2018 giữa ông Trần Văn H2 đã thỏa thuận thống nhất
lập “Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung". Theo đó, các bên thỏa thuận tài sản
3
gồm nhà đất tọa lạc tại địa chỉ số B số C đường N, phường H, quận N, thành
phố Cần Thơ nêu trên thuộc quyền sở hữu riêng của bà. Văn bản thỏa thuận được
chứng nhận ngày 25/5/2018 tại VPCC Trần Văn T1, số công chứng: 1744, quyền
số: 01/2018/TP/CC-SCC/HĐGD.
Sau khi thỏa thuận phân chia tài sản xong, phía ông H2 đã bàn giao các tài
sản là nhà và đất nêu trên cho bà S quản lý. Tuy nhiên, phía người thân của ông H2
các bị đơn có tên nêu trên có xin bà cho nhờ thêm thời gian để lo chuẩn bị nơi
ở mới. Nay docó nhu cầu sử dụng nhà và đất, do đó bà yêu cầu các bị đơn Trần
Thu H, Phạm Trần Phương N, ông Phạm Trần Thành Đ những người liên
quan đang trên nhà, đất phải di dời, giao trả nhà đất nêu trên cho bà. Đối với
yêu cầu phản tố của phía bị đơn ông T buộc ông Trần Văn H2 và bà trả lại cho ông
T tổng số tiền 1.086.000.000 đồng, trong đó 570.000.000 đồng xây dựng 04 dãy
phòng trọ 516.000.000 đồng do thu tiền trọ từ tháng 11/2016 đến nay thì
không đồng ý hiện tại các tài sản này do Phạm Thị T2 quản sử dụng, từ
trước đến nay, không liên quan đến việc quản sử dụng không thu tiền
trọ.
* Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn S, các bị đơn lần lượt ý
kiến và phản tố như sau:
- Ông Trần n T trình bày: Nguồn gốc tài sản nhà và đất tại số B số C
đường N do ông vợ Ngô Thị N4 dùng tiền bán tài sản Bạc Liêu lên Cần
Thơ để mua nhà, tuy nhiên, thời điểm đó do không hộ khẩu ở Cần Thơ nên ông
nhờ con trai là Trần Văn H2 đứng ra mua và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Sau đó, ông có yêu cầu ông Trần Văn H2 và bà Nguyễn Thị S giao trả
lại giấy tờ nhà đất nhưng ông H2bà S xin mượn để vay Ngân hàng bổ sung vốn
làm ăn. vậy, ông không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn S,
đồng thời, đề nghị Tòa án công nhận phần đất và tài sản gắn liền với đất tại số 26B
30 thuộc quyền sử dụng của ông, buộc S nghĩa vụ sang tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Trong quá trình sử dụng nhà đất, ông
bỏ tiền ra xây dựng 04 dãy trọ (mỗi dãy 03 phòng). Tuy nhiên, việc xây dựng nhà
trọ của ông do chưa đúng quy định nên ngày 19/8/2014 UBND quận N đã ban
hành Quyết định hành chính xử phạt ông. Từ tháng 11/2016 đến nay ông H2 và
S trực tiếp quản thu tiền trọ từ tháng 11 năm 2016 đến nay 516.000.000
đồng. Do đó, ông yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Văn H2 Nguyễn Thị S trả
lại cho ông tổng số tiền 1.086.000.000 đồng, trong đó 570.000.000 đồng xây
dựng 04 dãy phòng trọ và 516.000.000 đồng thu tiền trọ từ tháng 11/2016 đến nay.
- Trần Thu H trình bày: Thống nhất với lời của ông Trần Văn T, không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn bà S. Hiện tại nhà số B30 do
các hộ sau đây đang sinh sống từ trước đến nay, cụ thể:
1. Tại nhà số B, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ những
người sau đây đang sinh sống: Trần Thị D (con ông T), ông Kim N3, sinh
năm 1988 (con D), Phạm Thị L, sinh năm 1989 (vợ ông Kim N3), cháu
Phạm Gia H1, sinh năm 2021 cháu Phạm Tuệ A, sinh năm 2023 (con
4
ông N3).
2. Tại nhà số C, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ những
người sau đây đang sinh sống: Ông Trần Văn T, bà và ông Phạm Thế D1, sinh năm
1966 (là chồng), ông Phạm Trần Thành Đ (con bà), Phạm Trần Phương N (con
bà).
- Ông Trần Văn H2 ý kiến: Nguồn gốc nhà đất đang tranh chấp của vợ
chồng ông S tạo lập, ông T không đưa tiền ông mua nhà đất này, nhận
75 triệu đồng là mua đất trong Mỹ Khánh để làm đất mộ gia đình. Nay với yêu cầu
của bà S thì ông thống nhất, không yêu cầu gì trong vụ án.
* Vụ việc hòa giải không thành nên được đưa ra xét xử thẩm công khai.
Tại Bản án thẩm số 289/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2024 của Tòa án
nhân dân quận Ninh Kiều xét xử và quyết định như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị S.
1.1. Buộc các đương sự: Trần Thị D (con ông T), ông Kim N3, sinh
năm 1988 (con D), Phạm Thị L, sinh năm 1989 (vợ ông Kim N3), cháu
Phạm Gia H1, sinh năm 2021 cháu Phạm Tuệ A, sinh năm 2023 (con
ông N3) nghĩa vụ di dời trả lại quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại
số B đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ cho nguyên đơn Nguyễn
Thị S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số 5401141011 do Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) cấp ngày
16/10/2001 cho bà Nguyễn Thị Sông Trần Văn H2.
1.2. Buộc các đương sự: bà Trần Thu H, ông Phạm Thế D1, sinh năm 1966
(chồng H), ông Phạm Trần Thành Đ (con H), Phạm Trần Phương N (con
H) nghĩa vụ di dời trả lại quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại số
C đường N, phường H, quận N, thành phố Cần T cho nguyên đơn bà Nguyễn
Thị S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số 5401141523 do Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) cấp ngày
21/10/2002 cho bà Nguyễn Thị S.
1.3. Đối với chi pdi dời: Ghi nhận sự tự nguyện hỗ trợ chi pdi dời của
nguyên đơn Nguyễn Thị S cho mỗi hộ gia đình 20.000.000 đồng và sẽ bàn
giao ở giai đoạn thi hành án.
1.4. Dành quyền lưu tại nhà số B C đường N, phường H, quận N,
thành phố Cần Thơ cho các đương sự nêu trên trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Đình chỉ yêu cầu buộc di dời trả lại tài sản số C đường N, phường H,
quận N, thành phố Cần Thơ cho nguyên đơn đối với ông Trần Văn T.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Văn T về việc:
4. nh quyền khởi kiện đòi lại i sản cho ông Trần n T đối ông Trần
Văn H2 để yêu cầu đòi lại tài sản theo quy định pháp luật.
5
5. Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí dân sự, chi phí thẩm định quyền
kháng cáo của các đương sự.
* Ngày 04 tháng 10 năm 2024 bị đơn ông T, H, người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông N3 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử bác yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn S, chấp nhận phản tố của ông T.
* Ngày 07 tháng 10 năm 2024, ông H2 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm xét xử không tuyên dành quyền khởi kiện đòi lại tài sản cho ông T đối với
ông.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
cũng như kháng cáo.
* Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông T phát biểu quan điểm
bảo vệ: Phía bị đơn ông T chứng cứ bán nhà Bạc Liêu được 85 triêu lên
Cần Thơ giao cho ông H2 mua hai căn nhà đang tranh chấp, được nhiều người làm
chứng đã cung cấp trong hồ sơ. Việc giao tiền cho H2 được các bên thể hiện trong
biên bản hòa giải tại bút lục 83, 84 có sự tham gia của S, ông Huỳnh bà S1 giao
04 căn nhà và đưa 15 cây vàng để ông gia đình mua nhà khác. Ông H2 nói nhận 75
triệu để mua đất trong M (tương đương 15 cây vàng) nhưng đất trong M là D
đứng ra thương lượng mua. Số tiền chuyển nhượng hai căn nhà 70 triệu là phù hợp
tương đương với số tiền ông H2 thừa nhận 75 triệu. Khi Ngân hàng phát mãi nhà
đất thì ông H2 thừa nhận đứng tên thay bố mẹ. Người thực tế sdụng nhà đất
ông T, H, D, còn S1 ông H2 không ở. Nhà số 30 nếu không phải của
ông T tH không thể đứng chủ hộ được. Đối với nhà trọ 7T ông T bỏ tiền ra
xây dựng chứng minh qua việc ông T bị xử phạt hành chính, đất chưa công nhận
cho ai, S1 tự ý lấy tiền thuê nên phải trả cho ông T đúng, đối với tiền
50.000.000 đồng, do bà T2 gây áp lực cho bà H là giá trị các vật dụng trong nhà
không phải phần kiến trúc, tiền ông T xây giao dịch với bà H không đúng
nên hiệu. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu phản tố kháng
cáo của ông T.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa phúc thẩm:
- Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Qua tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩmxem xét các chứng
cứ có trong hồ sơ, thấy rằng, nguồn gốc nhà là của S1 mua, ông T không chứng
minh được giao tiền cho ông H2, S1 nhờ đứng tên hộ nên không căn cứ,
đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Việc vắng mặt bà S1, ông T nhưng có người đại diện, đối với
người liên quan xin vắng mặt, một số vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ 2 nên tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định Điều 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của các bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
6
[2.1] Qua xem xét các chứng cứ trong hồ diễn biến tranh tụng tại
phiên tòa phúc thẩm hôm nay, sở xác định: Phần đất nhà đang tranh chấp
tại số B do ông Trần Văn H2 Nguyễn Thị S nhận chuyển nhượng của
Trương Thị B, ông Huỳnh Văn Tuấn K vào ngày 24/7/2001 (đối với tài sản tại B)
ông Phước H3 ngày 13/8/2002 (đối với tài sản tại 30). Đồng thời, tại bản tự
khai ngày 26/6/2023 của ông K, bà B xác nhận ngày 23/6/2023 của ông H3 đều
thừa nhận chuyển nhượng cho Nguyễn Thị S, vậy, việc S, ông Huỳnh
N5 chuyển nhượng các tài sản trên thật không cần phải chứng minh. Bên
cạnh đó, qua xem xét toàn bộ hồ sơ địa chính liên quan đến việc chuyển nhượng và
đăng thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai phần nhà, đất
đang tranh chấp đều thể hiện phía nguyên đơn bà S là người trực tiếp thực hiện các
thủ tục pháp đối với phần đất nêu trên. Ông T không trong các hợp đồng
nhận chuyển nhượng mà người trực tiếp nhận chuyển nhượng là S, ông H2.
[2.2] Phía bị đơn ông T, bà H3 cho rằng ông T, bà N4 đã bán nhà ở Bạc Liêu
được 86 triệu đưa cho vợ chông ông H2, S để mua hai căn nhà đang tranh chấp
(có những người làm chứng) nhờ đứng tên hộ do không hộ khẩu Cần Thơ,
nhưng S, ông H2 không thừa nhận bị đơn ông T cũng không cung cấp được
các chứng cứ giao tiền cho ông H2, bà S cũng như việc thỏa thuận nhờ nguyên đơn
S, ông H2 đứng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc
xác nhận của những người làm chứng chỉ giá trị chứng minh ông T bán tài
sản Bạc Liêu là thật, còn nguồn tiền bán tài sản để mua nhà đất Cần T
chưa đủ cơ sở để chứng minh.
[2.3] Phía bị đơn ông T còn cho rằng chính ông H2 trình bày trong đơn đề
nghị ngày 27/4/2014 đứng hộ ông T hai căn nhà đang tranh chấp. Tại phiên tòa
ông H2 không thừa nhận việc đứng tên hộ ông T như trong đơn đề nghị trình bày,
đây chỉ cách để trì hoãn việc phát mãi tài sản của quan thi hành án. Thấy
rằng, thời điểm đó việc phát mãi tài sản thật nên việc ông H2 lo sợ tài sản bị
phát mãi là tất nhiên, nhưng Nguyễn Thị S cho rằng, không biết đơn đề nghị
này của ông H2. Do đó, nội dung nêu trong đơn đề nghị không có sở để xác
định có việc thỏa thuận đứng tên hộ. Bên cạnh đó, theo như văn bản thỏa thuận gia
đình ngày 11/4/2014 (bị đơn cung cấp bản photo nội dung): Ông T bán nhà
Bạc Liêu n đnhà số C 26B đưa cho vợ chồng H2 75 triệu (tương
đương 15 cây vàng), nhưng không xác định tiền này dùng để mua nhà, trong khi
đơn khởi kiện các lời khai thì bị đơn ông T xác định giao cho ông H2 86 triệu
(tương đương 24 cây vàng) không phù hợp, ngoài ra còn nội dung: khi H2 bị
Ngân hàng phát mãi tài sản để không muốn mất nhà n H2 làm biên bản nhận
khống của bố mẹ 300 lượng để lo giải quyết, nay gia đình không về Bạc Liêu
trả lại giấy khống cho H2, trả lại nhà 26B 30 cho H2, S đã thế chấp Ngân hàng
lo trả nợ. Giấy thỏa thuận tuy bản photo không được xem chứng cứ nhưng
chính bị đơn nộp để tham khảo đối chiếu với các chứng cứ khác phù hợp với
lời khai của H2 về việc khi bị phát mãi lo sợ mất nhà nên đã xác nhận đứng tên hộ
căn cứ. Nội dung cuối cùng biên bản nội dung: đối với hai căn nhà đang
tranh chấp thì thỏa thuận: Huỳnh, S tự nguyện biếu lại bố mẹ dưỡng già, sau này
bố mmãn đời thì Huỳnh S1 quản lý, điều này đồng nghĩa với việc hai căn nhà
7
này thuộc quyền s dụng của ông H2, S1, còn việc tự nguyện biếu hay
không, có thay đổi là do ý chí định đoạt của bà S1.
[2.4] Ngoài ra, căn cứ vào Biên bản xác minh ngày 23/9/2024 của Tòa án
nhân dân quận Ninh Kiều tại Đội Cảnh sát quản hành chính về trật tự hội -
Công an quận N, thành phố Cần Thơ xác định thời điểm bà Trần Thu H đăng ký hộ
khẩu tại số C vào năm 2006 dựa trên sở Hợp đồng ủy quyền ngày 26/7/2006
giữa ông Trần Văn H2, Nguyễn Thị S cho H. Nội dung ủy quyền liên quan
đến việc bà H được quyền quản lý, sử dụng căn nhà số C, Lộ I, phường H, quận N,
thành phố Cần Thơ, đã mặc nhiên xác định nhà đất của vợ chồng ông H2, nếu
của ông T thì không cần phải ủy quyền từ S cho H. Do đó, việc H cho
rằng bà có đăng ký hộ khẩu tại nhà số C, bà S chỉ đứng tên hộ nhà, đất là không có
cơ sở chấp nhận.
[2.5] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông T yêu cầu ông Trần Văn H2
Nguyễn Thị S trả lại cho ông Trần Văn T tổng số tiền 1.086.000.000 đồng,
trong đó 570.000.000 đồng xây dựng 04 dãy phòng trọ và 516.000.000 đồng thu
tiền trọ từ tháng 11/2016 đến nay. Ngày 09/4/2024 Tòa án thẩm tiến hành
xem xét thẩm định thực tế đối với 04 căn phòng trọ xác định hiện tại các căn phòng
trọ trên do bà Phạm Thị T2 đang quản lý sử dụng. Căn cứ vào bản tường trình ngày
27/5/2024 của bà T2 Biên bản giải quyết ngày 31/10/2017 của Ủy ban nhân dân
phường H thể hiện nội dung T2 đồng ý mua lại vật kiến trúc của 04 căn phòng
trọ do gia đình H xây dựng phía sau T2 với giá 50.000.000 đồng được
quyền quản sử dụng, chịu trách nhiệm pháp đối với 04 căn phòng trnày,
đồng thời, rút lại toàn bộ đơn khiếu nại đối với bà T2. Tại phiên tòa, H thừa
nhận nhận 50.000.000 đồng của T2 nhưng cho rằng chỉ chi phí hỗ tr
cho di dời. Xét thấy, lời thừa nhận của H phù hợp với các tài liệu chứng cứ
trong hồ sơ vụ án, từ năm 2016 đến nay 04 căn phòng trọ trên do T2 quản
khai thác sử dụng, do đó, việc ông T khởi kiện đối với Nguyễn Thị S ông
Trần Văn H2 không đúng đối tượng nên không có cơ sở chấp nhận.
[2.5] Ngày 25/5/2018 Nguyễn Thị S ông Trần Văn H2 lập văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung với nội dung toàn bộ căn nhà quyền sdụng đất
tọa lạc tại số B và 30 Lộ I, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ thuộc quyền sở
hữu riêng và trọn vẹn của bà Nguyễn Thị S. Do đó, S khởi kiện buộc các bị đơn
và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan di dời trả lại nhà, đất là có căn cứ
chấp nhận nên kháng cáo của ông T, H, ông N3 đề nghị bác yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn bà S là không có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo ông H2: Thấy rằng, phía ông H2 cho rằng nhận 70
triệu đồng của ông T nhưng để mua đất trong M, không phải nhà, đất đang tranh
chấp, ông T thì cho rằng tiền này để mua nhà đất đang tranh chấp đường N, như
trên nhận định, xác định tiền mua tài sản của S, ông H2, vậy, nếu có tranh
chấp sẽ giải quyết thành vụ kiện khác ncấp thẩm nhận định đúng. Tuy
nhiên, phần này không tuyên trong quyết định bởi việc khởi kiện quyền của
đương sự tự định đoạt. Do đó, kháng cáo của ông H2 là có căn cứ chấp nhận.
8
[4] Đối với việc đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn buộc ông T di dời trả
lại tài sản số C đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ không kháng
cáo nên không xem xét.
[5] Với những nhận định trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn S đúng, riêng đối với kháng
cáo của ông H2 là có căn cứ nên sửa theo hướng nhận định trên.
[6] Về chi phí tố tụng: Giữ nguyên như án sơ thẩm.
[7] Về phần án phí:
[7.1] thẩm: Bị đơn H, ông Đ N3 phải chịu theo quy định Điều
147 Bộ luật tố tụng Dân sự nhưng cấp thẩm không buộc n sửa lại theo quy
định.
[7.2] Phúc thẩm:
- Bị đơn ông T, H người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông N3
kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu. Tuy nhiên, ông T được miễn do là
người cao tuổi. Bà H, ông N3 phải chịu theo quy định.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H2 không phải chịu. Được
nhận lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
*Căn cứ: - Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
*Tuyên xử:
- Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn T, bà Trần Thu H
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Kim N3.
- Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H2.
- Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 269/2024/DS-ST ngày 24 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều.
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà S buộc ông Trần Văn T di
dời và trả lại tài sản số C đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị S.
2.1. Buộc các đương sự: Trần Thị D (con ông T), ông Kim N3, sinh
năm 1988 (con D), Phạm Thị L, sinh năm 1989 (vợ ông Kim N3), cháu
9
Phạm Gia H1, sinh năm 2021 cháu Phạm Tuệ A, sinh năm 2023 (con
ông N3) nghĩa vụ di dời trả lại quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại
số B đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ cho nguyên đơn Nguyễn
Thị S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số 5401141011 do Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) cấp ngày
16/10/2001 cho bà Nguyễn Thị Sông Trần Văn H2.
2.2. Buộc các đương sự: bà Trần Thu H, ông Phạm Thế D1, sinh năm 1966
(chồng H), ông Phạm Trần Thành Đ (con H), Phạm Trần Phương N (con
H) nghĩa vụ di dời trả lại quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại số
C đường N, phường H, quận N, thành phố Cần T cho nguyên đơn bà Nguyễn
Thị S theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số 5401141523 do Ủy ban nhân dân tỉnh C (cũ) cấp ngày
21/10/2002 cho bà Nguyễn Thị S.
2.3. Đối với chi pdi dời: Ghi nhận sự tự nguyện hỗ trợ chi pdi dời của
nguyên đơn Nguyễn Thị S cho mỗi hộ gia đình 20.000.000 đồng sẽ bàn
giao ở giai đoạn thi hành án.
2.4. Dành quyền lưu tại nhà số B C đường N, phường H, quận N,
thành phố Cần Thơ cho các đương sự nêu trên trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Văn T về việc:
- Công nhận phần đất tài sản gắn liền với đất tại số 26B 30 thuộc
quyền sử dụng của phía bị đơn ông Trần Văn T và buộc nguyên đơn nghĩa vụ
sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn T.
- Buộc ông Trần Văn H2 Nguyễn Thị S trả lại cho ông Trần Văn T
tổng số tiền 1.086.000.000 đồng, trong đó 570.000.000 đồng xây dựng 04 dãy
phòng trọ và 516.000.000 đồng thu tiền trọ từ tháng 11/2016 đến nay.
4. Về chi phí đo đạc, thẩm định tại chỗ: Các bị đơn phải chịu 5.000.000
đồng. Nguyên đơn đã tạm ứng 2.500.000 đồng nên các bị đơn nghĩa vụ trả lại
cho nguyên đơn số tiền 2.500.000 đồng.
5. Về án phí;
5.1. Dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Trần Văn T được miễn án phí. Nguyên đơn
S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 600.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu
tiền số 0000764 ngày 10/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều,
thành phố Cần Thơ. Bị đơn H, N, ông Đ phải chịu theo quy định 300.000
đồng.
5.2. Dân sự phúc thẩm: Ông H2 được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002061 ngày 07/10/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự quận Ninh Kiều. Trần Thu H và ông Kim N3 phải chịu 600.000
đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0002048
ngày 04/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ.
10
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND TPCT;
- TAND Q. Ninh Kiều;
- Chi cục THADS Q. Ninh Kiều; (Đã ký)
- Lưu hồ sơ vụ án.
Hà Thị Phƣơng Thanh
Tải về
Bản án số 170/2025/DS-PT Bản án số 170/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 170/2025/DS-PT Bản án số 170/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất