Bản án số 136/2024/DS-PT ngày 01/07/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 136/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 136/2024/DS-PT ngày 01/07/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 136/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những nội dung sau
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
Bản án số: 136/2024/DS-PT
Ngày 01-7-2024
V/v: Tranh chp quyn s dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Minh Vỹ
Các Thẩm phán: Ông Trịnh Hoàng Anh
Nguyễn Thị Quang
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Rịa - Vũng Tàu.
- Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Ra - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Bà Lê Thị Vẹn - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 28 tháng 6 và 01 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số
36/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 3 năm 2024 về Tranh chp quyn s dng
đất”.
Do Bn án dân s sơ thm s 49/2023/DS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2023
ca Toà án nhân dân th xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa v án ra xét x phúc thm s 127/2024/QĐ-PT ngày
16 tháng 5 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 155/2024/QĐ-PT ngày 30
tháng 5 năm 2024, Quyết định thay đổi người tiến hành t tng s 103/2024/QĐ-
TA ngày 28 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Văn T, sinh năm 1954.
Địa chỉ: 1 D, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Trần Thị Mỹ D, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Q, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, theo Giấy y quyền ngày 03-5-
2024 (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
Ông Nguyễn Văn X Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
Địa chỉ: 1 T, Phường E, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Tổ B, khu phố Q, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1982.
Địa chỉ: C N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Hợp
đồng ủy quyền ngày 23-5-2024 (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:
Ông Phan Công V Luật sư thuộc Công ty L Đoàn Luật sư Thành ph H
(có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lâm Thị Bạch T1, sinh năm 1959.
Địa chỉ: 1 D, Phường A, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà T1:
Ông Phan Văn T, sinh năm 1954.
Địa chỉ: 1 D, phường A, qun P, Thành ph H Chí Minh, theo văn bản ủy
quyền ngày 22-12-2020 (có mặt).
2. Ông Huỳnh Á, sinh năm 1948.
Địa chỉ: Tổ B, khu phố Q, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Á:
Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1982.
Địa chỉ: C N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Hợp
đồng ủy quyền ngày 23-5-2024 (có mặt).
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thành X1, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Tổ A, khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng
mặt).
- Người kháng cáo:
1. Bà Nguyễn Thị N - Nguyên đơn.
2. Ông Huỳnh Á Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Phan Văn T trình bày:
Ông Phan Văn T chủ sử dụng của thửa đất số 2366, tbản đồ 03 tọa lạc
tại phường P, thP, tnh Bà Ra - Vũng Tàu. Thửa đất có tứ cận và kích thước
như sau:
Phía Bắc giáp thửa 2367 kích thước 25,4m;
Phía Nam giáp thửa 136 kích thước 24,6m;
Phía Tây giáp đường S kích thước 21,0m;
Phía Đông giáp thửa 356 kích thước 21,0m.
Thửa đất nguồn gốc: Năm 1993, ông T nhận chuyển nhượng của ông Phan
Đình T2 bằng giấy viết tay diện tích khoảng 10.000 m
2
. Ngày 10-6-1996, ông T
đi khai đăng ký đưc nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất thửa
129, tbản đồ 03 với diện tích 10.000 m
2
. Năm 2017, ông T bmất giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên đã làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Diện tích trên bản đồ số hóa đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B
phê duyệt ngày 17-3-2008 là 9.588 m
2
.
Ngày 27-12-2017, thửa 129 tách thành 2 thửa 2351 và 2352 với diện tích
8.038 m
2
. Phần còn lại 1.571,6 m
2
đã có thông báo thu hồi để làm đường S.
Ngày 08-3-2018, thửa 2352 diện tích 1.349,0 m
2
tách thành 2 thửa: Thửa
2366 diện tích 518,0 m
2
thửa 2367 diện tích 831,0 m
2
. Phần đất tranh chấp
thuộc một phần thửa 2366.
Thửa đất 2366 trước đây ông T trồng điều, sau khi nhà nước thu hồi năm
2018 thì ông T để trống.
Năm 2020, ông T tiến hành đo đạc cắm mốc thì bà N nhổ mốc cọc của ông
T và rào kẽm gai lại nên phát sinh tranh chấp.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những nội dung sau:
- Yêu cầu Tòa án công nhận diện tích khoảng hơn 100 m
2
thuộc thửa 2366,
tờ bản đồ 03 phường P là của ông Phan Văn T.
- Buộc bà Nguyễn Thị N phải trlại cho ông T diện tích đất khoảng hơn 100
m
2
thuộc thửa 2366, tờ bản đồ 03 tọa lạc phường P, th xã P, tnh Bà Ra - Vũng
Tàu.
- Buộc bà Nguyễn Thị N phải di dời 01 trụ bê tông 1 hàng rào kẽm gai do
bà N xây dựng.
Bị đơn bà Nguyn Th N trình bày:
Nguyễn Thị Nông Huỳnh Á là chủ thửa đất số 136, tờ bản đồ 03 tọa
lạc tại phường P, th xã P, liền kề với thửa đất số 2366, tbản đồ 03 của ông Phan
Văn T.
Bà N không biết tứ cận thửa đất của bà giáp với những thửa đất nào và kích
thước mỗi cạnh là bao nhiêu.
Năm 1986, vợ chồng N, ông Á đến khai hoang thửa đất trên đến năm 2002
thì bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02489/QSDĐ/322--
UB đối với 03 thửa đất trong đó có thửa số 136 diện tích 11.623 m
2
.
Do có nhu cầu cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới nên ngày 25-
4-2011, bà N được nnước cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với thửa
136, tờ bản đồ 03 diện tích 11.597 m
2
.
Ngày 27-02-2018, nhà nước thu hồi 1.502,8 m
2
đường quy hoạch S, diện tích
còn lại 10.094,2 m
2
trong đó có 300 m
2
đất ở và 9.794 m
2
cây lâu năm.
Phần đất của N giáp ranh với đất ông T là hàng o kẽm gai trụ tông
có từ khi thửa đất trên còn là của ông T2, chủ cũ chuyển nhượng cho ông T. Hiện
nay trên đất tranh chấp có 1 trụ bê tông bà N y dựng cuối năm 2021, hàng rào
kẽm gai bà N rào năm 2018.
Nay, trước yêu cầu khởi kiện của ông T thì bà N không đồng ý, vì: Thửa đất
số 136 tờ bản đồ 03 tọa lạc tại phường P được gia đình bà N sử dụng từ năm 1986
cho đến nay, ranh đất không thay đổi, trước đây không ai tranh chp, bà N
đã sdụng đúng hiện trạng từ trước đến nay nên không đồng ý trả lại đất theo yêu
cầu của ông T.
Nời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Á trình bày:
Ông Á chồng của N. Ông Á thống nhất với lời khai N, không bổ
sung gì thêm.
Nời làm chứng ông Nguyễn Thành X1 trình bày:
Ông không quan hệ với N và ông T. Vào các năm 2003, 2004 ông
đến đất của N để trồng hoa màu, thửa đất của N đã cột mốc. Ông
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Phan Văn T
ông Nguyễn Văn X trình bày:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Sơ đồ vị trí lập ngày
03-6-2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh B xác định phần
diện tích tranh chấp 104,6m
2
được hiệu 7, 8 (gồm các điểm 23, 5, 21, 21a,
20, 19, 23) thuộc thửa 2366, tờ bn đồ 03 tọa lạc phường P đã được Nhà ớc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phan Văn T. Do đó, đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc b đơn N phải trả lại
cho ông T diện tích 104,6m
2
nêu trên và buộc N tháo dỡ, di dời các tài sản trên
đất tranh chấp.
Tại Bản án dân sự thẩm s 49/2023/DS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2023
ca Toà án nhân dân th xã P, tỉnh Bà Ra - Vũng Tàu, đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T đối với
Nguyễn Thị N về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
- ng nhận diện tích đất 104,6m
2
được hiệu 7, 8 (gồm các điểm 23, 5,
21, 21a, 20, 19, 23) thể hiện trong Sơ đồ vị trí lập ngày 03-6-2021 của Trung tâm
Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh B thuộc thửa số 2366, tờ bản đồ số 3,
phưng P, th xã P là của ông Phan Văn T.
- Buộc bà Nguyễn Thị N phải trả lại cho ông T quyền sử dụng diện tích đất
104,6m
2
được hiệu 7, 8 (gồm các điểm 23, 5, 21, 21a, 20, 19, 23) thuộc thửa
2366 tờ bản đồ 03, phưng P, th xã P, tnh Bà Ra - Vũng Tàu.
- Buộc bà Nguyễn Thị N tháo dỡ di dời 01 hàng rào kẽm gai trụ bê tông cốt
thép 0,12m x 0,12m khoảng cách 3m 1 trụ, cao 1,5m, khoảng cách dây kẽm gai
a<50cm, dài 24m; 01 trụ tông cốt thép kích thước 0,2m x 0,2m cao 3m, ới
móng tông cốt thép kích thước 0,6m x 0,6m x 0,3m; 01 cây mai vàng đường
kính 3cm; 07 cây tràm đường kính 15cm; 04 cây mít 1 năm tuổi; 07 cây mãng cầu
ta 01 năm tuổi do bà N trồng và xây dựng để trả lại đất cho ông Phan Văn T.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyn kháng cáo
theo luật định.
Ngày 28-12-2023, bị đơn bà Nguyn Th N và người có quyn lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Huỳnh Á đơn kháng cáo toàn b bn án thẩm, yêu cu cp
phúc thm hủy bản án sơ thẩm, ng nhn quyn s dụng đất theo ranh hiện trng
s dng của gia đình bị đơn từ trước đến nay.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn ông Phan Văn Tngười đại din hợp pháp ca nguyên đơn
Trn Th M D xác nhn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc công nhận diện
tích đất 104,6m
2
thuộc thửa 2366, tờ bản đ 03 phường P thuộc quyền sử dụng
của ông Phan Văn T; buộc bà Nguyễn Thị N ông Huỳnh Á phải di dời các tài
sản hiện có trên phần đất này để trả lại cho ông T diện tích đất nêu trên.
Luật bảo v quyn, li ích hợp pháp cho nguyên đơn đ ngh Hội đồng
xét x không chp nhn kháng cáo ca b đơn vì không căn cứ pháp lut gi
nguyên quyết định ca bản án sơ thẩm.
B đơn Nguyễn Thị N người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Huỳnh Á (do ông Nguyễn Minh H đại diện theo ủy quyền) thay đổi yêu cầu kháng
cáo như sau: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng không
chp nhn toàn b yêu cu khi kin của nguyên đơn.
Luật sư bảo v quyn, li ích hp pháp cho b đơn đề ngh Hội đồng xét x
chp nhn yêu cu kháng cáo ca bà N và ông Á, sa bản án sơ thẩm theo ng
không chp nhn yêu cu khi kin của nguyên đơn, vì: H trình tự cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đt ca thửa 2352 thửa 2366 cho ông T không
đúng pháp luật, c th là khi đo đạc, xác định ranh gii không mời gia đình bà N
giáp ranh, không gi bn mô t ranh gii cho b đơn; cấp thẩm căn cứ s
liệu đo đạc năm 2002 để làm căn cứ chp nhn yêu cu khi kin ca nguyên đơn
là không khách quan, thuyết phục. Vì thế, bị đơn cho rằng việc quan nhà nước
đo vẽ cp giy cho b đơn không đúng vi ranh gii thc tế b đơn
nguyên đơn s dụng. Đề ngh Hội đồng xét x căn c vào ranh gii thc tế đã
đưc xác lp t năm 1986 đến nay trên 30 năm, đ xác đnh phần đt tranh chp
104,6m
2
thuc quyn s dng hp pháp ca b đơn và bác yêu cầu khi kin ca
nguyên đơn, theo Điều 175 B lut Dân s năm 2015.
Các đương sự không tha thuận được vi nhau v vic gii quyết v án
không b sung thêm tài liệu, chứng cứ.
- Quan điểm của Đại din Vin kim sát nhân dân tnh Bà Ra - Vũng Tàu về
việc giải quyết vụ án:
V t tụng: Đơn kháng cáo ca bị đơn bà Nguyn Th N và người có quyn
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hunh Á nộp trong thời hn luật định.
Quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm cp phúc thm, những người tiến
hành t tụng đã thực hiện đúng đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định
ca pháp lut. Những người tham gia t tụng đã thực hiện đúng quyền, nghĩa v
ca mình theo quy đnh ca B lut Tố tụng dân sự.
V nội dung: Đề ngh Hi đồng xét x không chấp nhận kháng cáo của bà N
và ông Á, gi nguyên quyết định ca bn án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liu, chng c đã đưc xem xét ti phiên tòa, trên cơ sở
kết qu tranh tng ti phiên tòa, Hội đồng xét x nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo ca bị đơn Nguyn Th N người có quyn li,
nghĩa vụ liên quan ông Hunh Á np trong thi hn luật định nên đưc chp
nhn xem xét theo th th tc phúc thm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, b đơn bà Nguyn Th N, người có quyn li,
nghĩa v liên quan Lâm Th Bch T1 và ông Huỳnh Á vng mặt nhưng đã
người đi din hp pháp tham gia phiên tòa; người làm chng Nguyễn Thành X1
vắng mặt nhưng đã lời khai tại hồ sơ vụ án. Do vy, Hội đồng xét x căn cứ
Điu 296 Bộ luật tố tụng dân sự, xử vắng mặt các đương s và người làm chng
nêu trên.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của b đơn Nguyn Th N người quyn
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hunh Á:
B đơn kháng cáo yêu cu sa bản án theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn vì: Giữa thửa đất 136 ca N và tha 2366 ca ông T
đã có ranh giới ổn định các trụ bê tông đưc bà N và ông T2 (ch của tha
2366) tha thun xây dng t năm 1986, đến nay vn còn tồn tại trên đất tranh
chấp. Đất tranh chp t trước đến nay nguyên đơn không s dng mà do b đơn
s dng. Xét yêu cầu kháng cáo trên của bà N và ông Á thì thấy:
[2.1] Theo lời khai của nguyên đơn chứng cứ tài liệu do Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thị xã P cung cấp (Bl 64-99), tthửa 2366 của nguyên đơn
nguồn gốc như sau: Năm 1993, ông T nhận chuyển nhượng diện tích đất
10.000m
2
thuộc thửa 129, tờ bản đồ 3 tại thôn Q, thị trấn P, huyện T (nay là khu
phố Q, phường P, thị xã P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu của ông Phan Đình T2. Năm
1998, ông T được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Rịa Vũng Tàu cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số L 704912 ngày 10-6-1998. Năm 2017, ông T b
mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên nên đã làm thủ tục xin cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mới, diện tích trên bản đồ số hóa đã được Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B phê duyệt ngày 17-3-2008 là 9.588 m
2
, giảm 412m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1998. Ngày 27-12-2017, thửa
129 thay đổi thành thửa đất số 2351/6.689m
2
và 2352/1.349m
2
với tổng diện tích
là 8.038m
2
.
Ngày 17-01-2018, ông Phan Văn T được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CL 857907 và số CL 857908 đối với 02 thửa đất trên, phần còn lại
1.571,6m
2
đã thông báo thu hi để làm đường S. Ngày 08-3-2018, thửa 2352
diện tích 1.349 m
2
tách thành 2 thửa: Thửa 2366 diện tích 518 m
2
thửa 2367
diện tích 831 m
2
. Quá trình thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và tách thửa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không bị những người có
liên quan khiếu nại hoặc khởi kiện về trình tự, thủ tục hành chính.
Theo ông T, ranh giới giữa thửa đất 129 của ông với thửa 136 của bà N, ông
Á đã hình thành từ khi ông Phan Đình T2 còn sử dụng đất. Khi chuyển nhượng
đất cho ông T vào năm 1993, ông T2 bàn giao mốc giới là các cột bê tông và rào
ới kẽm gai. Năm 1998, khi chỉ ranh cho cơ quan đo đạc để làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông cũng chỉ theo ranh giới ông T2 bàn giao
cho ông. Năm 2017, khi ông làm thtục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, ranh giới đất vẫn không thay đổi và cơ quan đo đạc cũng xác định mốc
giới đất của ông theo các cột trụ bê tông và hàng rão kẽm gai mà ông T2 bàn giao
cho ông. Đến năm 2020, ông T phát hiện các cột tông và hàng rào trên đã bị
phía N tháo dỡ nên hiện không còn. Như vậy, theo nguyên đơn ranh giới đất
ông sdụng từ năm 1993 đến năm 2018 là không thay đổi đã được thể hiện
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông. Vì thế, ông yêu cầu Tòa
án căn cứ ranh cấp giấy để xác định quyền sử dụng đất cho các bên.
Xét, lời khai trên của nguyên đơn phù hợp với chứng cứ nguyên đơn cung
cấp là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho tha 2366 có kèm theo
đồ vị trí thửa đất (Bl 07), phù hợp với sơ đồ vị trí đo vẽ khi tách thửa đất (Bl
81) trong đó đều thể hiện tọa độ các điểm mốc thửa 2366 trùng khớp với ranh giới
thực tế nguyên đơn chỉ; phù hợp với Biên bản xác minh nguồn gốc đt ngày
13-11-2017 đối với thửa đất 129 cũ, trong đó thhiện thửa đất 129 cắm mốc
phân định ranh giới đầy đủ với các hộ giáp ranh xung quanh (Bl 89); phù hợp lời
khai của đại diện bị đơn tại phiên tòa phúc thẩm năm 2018 b đơn tháo d
một số cột bê tông do nguyên đơn trồng lấn qua đất ca bị đơn. Mặt khác, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn được cấp lần đầu năm 1998, tức
trước khi bị đơn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2002,
nếu bị đơn cho rằng ranh giới này không chính xác, chồng lấn với phần đất bị
đơn đã sử dụng trên thực tế thì năm 2002, khi bị đơn làm thủ tục cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất phải phát hiện ra việc sai lệch ranh giới này, nhưng thực
tế bị đơn không có ý kiến gì. Vì thế, có căn cứ để xác định ranh giới thửa đất 129
và sau này là thửa 2366 theo giấy chứng nhận quyền sử dng đất cấp cho nguyên
đơn là phù hợp quy định của pháp luật.
[2.2] Đối với thửa đất 136 của bị đơn N: Theo lời khai, chứng cứ của đơn
và tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
th P (Bl 56-63, 42-43), thì thửa đất này do N, ông Á khai phá nhận
chuyển nhượng từ năm 1986. Ngày 28-3-2002, N được cấp giấy chứng nhn
quyền sdụng đất lần đầu với diện tích 11.623m
2
. Ngày 25-4-2011, bà N làm th
tục xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 136 và diện
tích được chỉnh lại 11.597m
2
, giảm 26m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã cấp năm 2002. Ngày 27-02-2018, Nhà nước thu hồi 1.502,8m
2
mở
đường S, diện tích còn lại 10.094,2m
2
. Quá trình thực hiện thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thực hiện đúng quy định của pháp luật, không bị những người có liên quan khiếu
nại hoặc khởi kiện về trình tự, thủ tục hành chính.
Theo bị đơn, ranh giới giữa thửa đất 136 của N với thửa 129 của ông T đã
hình thành từ khi ông Phan Đình T2 còn sử dng đất. Năm 1986, bà N và ông T2
đã cùng thỏa thuận xác định ranh giới đất cùng góp tiền dựng một số cột trụ bê
tông dọc ranh giới giữa hai thửa đất. Từ đó đến nay, các cột mc này vẫnn tồn
tại ranh giới đất thực tế giữa hai bên. Khi ông T nhận chuyển nhượng đất
của ông T2 thì vẫn sử dụng theo mốc giới này. Năm 2002, khi chỉ ranh cho
quan đo đạc để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất N cũng chỉ
các cột trụ tông này. Năm 2011, khi cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mới, bà N vẫn chỉ ranh mốc đã lập năm 1986. Còn việc cơ quan nhà nước đo
v như thế nào thì bà không biết.
Xét, lời khai trên của N không được ông T thừa nhận, không phù hợp với
kết quả đo đạc thực tế các thửa đất tranh chấp. Theo sơ đồ vị trí các thửa đất tranh
chấp (Bl 199), diện tích đất 104,6m
2
hiện đang tranh chấp nằm ngoài ranh giới
thửa 136 mà bà N đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2002
và cp lại năm 2011. Bà N cho rằng các ct trụ tông bị đơn chỉ ranh là ranh
giới đất tồn tại từ năm 1986 đến nay theo sự thỏa thuận giữa bà N với ông T2
chủ đất của thửa 2366, nhưng đây lời khai của phía N, không chứng
cứ chứng minh. Lời khai này cũng mâu thuẫn với lời khai của chính bị đơn tại
biên bản hòa giải ngày 26-10-2023 (Bl 255) trụ tông trên phần đất tranh chấp
do bà N xây dựng cuối năm 2021, còn hàng rào kẽm gai bà N làm năm 2018. Bà
N ông T đều xác nhận hiện nay ông T2 đã chết nên không xác thực được lời
khai của N về việc thỏa thuận ranh giới giữa N với ông T2 năm 1986. Do
đó, không có căn c xác định ranh giới đất thực tế giữa thửa 136 và thửa 2366 là
các cột trụ tông mà N chỉ, không căn cứ xác định các cột mốc trên đã
được xây dựng từ năm 1986, tồn tại trên 30 năm như b đơn khai. Mặt khác, nếu
các cột mốc trên ranh giới thực tế như bị đơn khai thì năm 2011, khi làm thủ
tục xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới, N phải chỉ ranh giới
thực tế này cho quan đo vẽ để thể hiện trên đồ vị trí thửa đất kèm theo.
Thực tế, sơ đồ vị trí này với các điểm mốc tọa độ cụ thể cho thấy phần đất tranh
chấp không thuộc thửa 136 của b đơn thuộc thửa 129 của nguyên đơn, nhưng
t năm 2011 đến nay, bị đơn hoàn toàn không khiếu nại về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất này.
Vì vậy, bị đơn cho rằng Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho nguyên đơn và b đơn không đúng quy định của pháp luật thực
tế sử dụng đất của các bên là không có căn cứ.
[2.3] Về quá trình sử dụng phần đất tranh chấp trên thực tế: Nguyên đơn khai
t năm 2018 trở về trước nguyên đơn trồng tràm trên đất tranh chấp, còn từ năm
2018 đến nay thì để trống. Còn bị đơn khai bị đơn sdụng liên tục phần đất tranh
chấp từ năm 1986 đến nay nhưng không chứng cứ chứng minh. Kết quả xem
xét thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện trên đất tranh chấp chỉ
một số cây trồng do bị đơn mới trồng khoảng 1 năm tuổi. Do đó, không có căn cứ
xác định bị đơn đã quản lý sử dụng đất tranh chấp t năm 1986 đến nay.
[2.4] Từ những căn cứ phân tích như trên cho thấy: Việc bị đơn kháng cáo
yêu cầu Hội đồng xét x căn c Điều 175 Bộ luật dân sự xác định các cột trụ
tông mà bị đơn chỉ ranh là ranh giới thực tế hợp pháp giữa đất của nguyên đơn
bị đơn là không phù hợp quy định của pháp luật nên không được chấp nhận.
Cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc b
đơn trả lại diện tích đất tranh chấp là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định của
pháp luật nên cần giữ nguyên quyết định này.
[3] Đối với diện tích đất 1,5m
2
thuộc số 6 là phần đất giao thông, nằm
ngoài diện tích cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nguyên
đơn xác nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên cấp sơ thẩm không xem xét
phù hợp quy định của pháp luật.
[4] Về chi phí tố tụng:
Chi phí sao lục tài liệu, chứng cứ; xem xét, thẩm định tại chỗ; đo vẽ và định
giá tài sản là 30.000.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí này. Ông Phan Văn T đã nộp tạm ứng
20.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị N đã nộp tạm ứng 10.000.000 đồng. Do vậy, bà
N phải hoàn trả cho ông T số tiền 20.000.000 đồng.
[5] Về án phí:
[5.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, nhưng do bà N là người cao tuổi
nên được miễn nộp án phí.
Nguyên đơn không phải chịu án phí đã được miễn nộp tiền tạm ứng án
phí dân sự sơ thẩm.
[5.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo không được chp nhn nên bà N
ông Á phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nhưng do ông bà người cao tuổi
nên được miễn nộp án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 B lut T tng dân s;
Không chấp nhn yêu cu kháng cáo ca b đơn bà Nguyn Th N và người
có quyn li, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh A, gi nguyên quyết định ca bn án
sơ thẩm:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điu 228, Điều 271, Điều 273, Điều
296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 163, Điều 166, 175 Bộ luật Dân sự
năm 2015; khoản 1 Điều 12; Điều 166; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điu
12, Điều 26 và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Văn T đối với bị
đơn Nguyễn Thị N về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
1.1. ng nhận quyền sử dụng đất diện tích 104,6m
2
được hiệu lô số 7
8 (gồm các điểm 23, 5, 21, 21a, 20, 19, 23 theo đồ vị tlập ngày 03-6-2021
của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh B) thuộc thửa đất số 2366,
tờ bản đồ số 3, phường P, th xã P, tnh Bà Ra - Vũng Tàu, thuộc quyền sử dụng
hợp pháp của ông Phan Văn T.
1.2. Buộc bà Nguyễn Thị N và ông Huỳnh Á phải trả lại cho ông Phan Văn
T quyền sử dụng đất diện tích 104,6m
2
thuộc thửa đất số 2366, tờ bản đồ số 3,
phưng P, th xã P, tnh Bà Ra - Vũng Tàu, được hiệu lô số 7 và 8 (gồm các
điểm 23, 5, 21, 21a, 20, 19, 23) theo đồ vị trí do Trung tâm kthuật Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B lập ngày 03-6-2021, kèm theo bản án.
1.3. Buộc Nguyễn Thị N ông Huỳnh Á tháo dỡ, di dời 01 hàng rào kẽm
gai trụ bê tông cốt thép 0,12m x 0,12m khoảng cách 3m 1 trụ, cao 1,5m, khoảng
cách dây kẽm gai a<50cm, dài 24m; 01 trụ tông cốt thép kích thước 0,2m x
0,2m cao 3m, dưới có móng bê tông cốt thép kích thước 0,6m x 0,6m x 0,3m, 01
cây mai vàng đường kính 3cm, 07 cây tràm đường kính 15cm, 04 cây mít 1 năm
tuổi, 07 cây mãng cầu ta 01 năm tuổi do bà N, ông Á trồng và xây dựng để trả lại
phần đất trên cho ông Phan Văn T.
2. Về chi phí tố tụng: Nguyễn Thị N nghĩa vụ trả lại cho ông Phan Văn
T số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng chi psao lục tài liệu, chứng cứ, thẩm
định, đo vẽ và định giá tài sản.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi
hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu bên nghĩa vụ thanh toán chậm thực
hiện nghĩa vụ thì hàng tháng phải trả thêm cho bên được thi hành án khoản tiền
lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự thẩm:
Ông Phan Văn T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyễn Thị N được miễn án phí dân sự sơ thẩm do là người cao tuổi.
3.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị N và ông Huỳnh Á do
người cao tuổi.
4. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (01-7-
2024).
Trường hp bản án được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Lut thi hành án
dân s thì người được thi hành án dân sự, người phi thi hành án dân squyn
tha thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án hoc b
ng chế thi hành án theo quy đnh tại các điu 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut thi hành án
dân s; thi hiệu thi hành án được thc hiện theo quy định tại Điều 30 Lut thi
hành án dân s.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- S Tư pháp tnh BR-VT;
- TAND Tx. P, tỉnh BR-VT;
- VKSND Tx. P, tỉnh BR-VT;
- Chi cục THADS Tx. P, tỉnh BR-VT;
- Chi nhánh VPĐKĐĐ Tx. P, tnh BR-VT;
- Các đương sự;
- Lưu: Tòa Dân s, H sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Minh Vỹ
Tải về
Bản án số 136/2024/DS-PT Bản án số 136/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 136/2024/DS-PT Bản án số 136/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất