Bản án số 135/2025/DS-ST ngày 26/05/2025 của TAND huyện Phú Tân, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 135/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 135/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 135/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 135/2025/DS-ST ngày 26/05/2025 của TAND huyện Phú Tân, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Phú Tân (TAND tỉnh An Giang) |
Số hiệu: | 135/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vào ngày 24/12/2023, ông Lê Tấn T có mua một điện thoại Samsung và còn nợ anh số tiền 8.000.000 đồng, ông T có viết biên nhận và cam kết thanh toán số tiền nợ trước ngày 24/01/2024. Đến ngày 26/3/2024, ông T vay của anh số tiền 190.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 20%/năm, việc vay có viết biên nhận và cam kết thanh toán khoản nợ trên trước ngày 26/4/2024. Tuy nhiên, cả hai khoản nợ trên đến hạn thanh toán nhưng ông T vẫn không trả nên anh khởi kiện yêu cầu ông T cùng vợ là bà Nguyễn Thị N trả tổng số tiền nợ là 198.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi đối với khoản tiền vay từ ngày 26/4/2024 cho đến ngày xét xử theo mức lãi suất 20%/năm. Nay tại phiên tòa, anh S xác định do bà N và ông T là vợ chồng nên2 yêu cầu Tòa án buộc bà N liên đới cùng ông T trả một lần cho anh các khoản gồm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN PHÚ TÂN, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 135/2025/DS-ST
Ngày 26 – 5 – 2025
V/v tranh chấp hợp đồng
mua bán và vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông Lâm Hoài Ân
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Trần Thị Hoài Yên
2. Ông Vũ Minh Hoàng
- Thư ký phiên toà: Ông Lữ Tấn Thiên – Là Thư ký Toà án nhân dân huyện
Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Ngày 26 tháng 5 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Tân xét xử
sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 96/2025/TLST-DS, ngày 20 tháng 02
năm 2025 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán và vay tài sản theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 139/2025/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 4 năm 2025 giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Việt S, sinh năm 1977; Địa chỉ: khóm 1, thị
trấn C, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Lê Tấn T, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm
1967; Địa chỉ: khóm 2, thị trấn C, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án được bổ sung
tại phiên tòa, anh Nguyễn Việt S (nguyên đơn) trình bày:
Vào ngày 24/12/2023, ông Lê Tấn T có mua một điện thoại Samsung và còn
nợ anh số tiền 8.000.000 đồng, ông T có viết biên nhận và cam kết thanh toán số
tiền nợ trước ngày 24/01/2024. Đến ngày 26/3/2024, ông T vay của anh số tiền
190.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 20%/năm, việc vay có viết biên nhận và cam
kết thanh toán khoản nợ trên trước ngày 26/4/2024. Tuy nhiên, cả hai khoản nợ
trên đến hạn thanh toán nhưng ông T vẫn không trả nên anh khởi kiện yêu cầu ông
T cùng vợ là bà Nguyễn Thị N trả tổng số tiền nợ là 198.000.000 đồng và yêu cầu
tính lãi đối với khoản tiền vay từ ngày 26/4/2024 cho đến ngày xét xử theo mức lãi
suất 20%/năm. Nay tại phiên tòa, anh S xác định do bà N và ông T là vợ chồng nên
2
yêu cầu Tòa án buộc bà N liên đới cùng ông T trả một lần cho anh các khoản gồm:
Đối với khoản nợ tiền mua điện thoại, yêu cầu trả 8.000.000 đồng; Đối với khoản
vay, yêu cầu trả số tiền vốn vay là 190.000.000 đồng và tính lãi từ ngày 26/4/2024
đến ngày xét xử theo mức lãi suất 20%/năm. Đối với hai khoản nợ trên, anh không
yêu cầu tính lãi chậm trả, không yêu cầu tính lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả và
không yêu cầu tính lãi trong khoản thời gian từ ngày viết biên nhận đến ngày cam
kết thanh toán nợ. Ngoài ra, anh S không yêu cầu thêm khoản nào khác.
Đối với ông Lê Tấn T và bà Nguyễn Thị N (bị đơn), Tòa án đã tống đạt
Thông báo thụ lý vụ án cùng các văn bản tố tụng và triệu tập nhiều lần nhưng ông
T, bà N không đến Toà cũng không gửi văn bản để nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi
kiện của anh Nguyễn Việt S (nguyên đơn).
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
[1] Về tố tụng, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia
phiên tòa xét xử nhưng vẫn vắng mặt, không rõ lý do nên căn cứ vào Điều 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử.
[2] Tranh chấp giữa nguyên và bị đơn được xác định là tranh chấp về hợp
đồng mua bán tài sản và hợp đồng vay tài sản, tuy việc mua bán chỉ thỏa thuận
bằng lời nói, không lập hợp đồng mua bán nhưng thực tế bị đơn đã nhận tài sản, trả
một phần tiền khi mua tài sản cho nguyên đơn, ký tên vào biên nhận ngày
24/12/2023 và ngày 26/3/2024, thừa nhận còn nợ nguyên đơn số tiền 8.000.000
đồng mua điện thoại, nợ 190.000.000 đồng tiền vay là sự thật nên không phải
chứng minh.
[3] Mặc dù, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ, song vẫn vắng mặt không rõ lý
do và trong thời gian giải quyết vụ án, bị đơn không đến Toà, không gửi văn bản ý
kiến đối với yêu cầu khởi kiện cũng như lời trình bày của nguyên đơn, không cung
cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh là tự từ bỏ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
theo quy định của pháp luật nên lời trình bày của nguyên đơn về việc bị đơn còn
nợ và yêu cầu trả tổng số tiền còn nợ là 198.000.000 đồng (một trăm chín mươi
tám triệu đồng) là có căn cứ, được chấp nhận.
[4] Xét yêu cầu tính lãi, Hội đồng xét xử nhận thấy tại biên nhận viết ngày
24/12/2023 thể hiện việc bị đơn cam kết trả số tiền mua điện thoại còn nợ trước
ngày 24/01/2024, tại biên nhận ngày 26/3/2024 bị đơn cam kết trả số tiền vay trước
ngày 26/4/2024 nhưng đến thời hạn cam kết, bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả
tiền là vi phạm thời gian trả nợ theo thỏa thuận. Tuy nhiên, đối với hai khoản nợ
trên, nguyên đơn không yêu cầu tính lãi chậm trả, không yêu cầu tính lãi trên nợ
gốc quá hạn chưa trả và không yêu cầu tính lãi trong khoản thời gian từ ngày viết
biên nhận đến ngày cam kết thanh toán nợ - Đây là ý chí, quyền tự định đoạt của
nguyên đơn nên chấp nhận. Đối với khoản nợ vay, nguyên đơn yêu cầu tính lãi từ
ngày từ ngày 26/4/2024 đến ngày xét sử sơ thẩm (ngày 26/5/2025) là 01 năm 01
tháng theo mức lãi suất 20%/năm là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 468
của Bộ luật Dân sự nên chấp nhận, cụ thể số tiền lãi của nguyên đơn được tính như
3
sau: (01 năm 11 tháng x 190.000.000 đồng) x 20%/năm = 41.271.555 đồng, làm
tròn 41.271.500 đồng.
[5] Với nhận định tại mục [3] và [4], tổng số tiền vốn và lãi nguyên đơn
được chấp nhận là:
(190.000.000 đồng + 8.000.000 đồng + 41.271.500 đồng) = 239.271.500
đồng (hai trăm ba mươi chín triệu hai trăm bảy mươi mốt nghìn năm trăm đồng).
[6] Về trách nhiệm thanh toán nợ, Hội đồng xét xử xét thấy tại thời điểm
giao dịch cho đến nay, giữa bị đơn vẫn còn tồn tại mối quan hệ vợ chồng. Hơn
nữa, bị đơn không cung cấp được giấy tờ, tài liệu có giá trị pháp lý chứng minh
trong thời kỳ hôn nhân giữa vợ chồng bị đơn có thỏa thuận bằng văn bản về việc
làm ăn, kinh doanh riêng và chịu trách nhiệm riêng đối với tài sản được tạo lập do
làm ăn riêng, kinh doanh riêng mà có được nên khoản nợ nguyên đơn yêu cầu
được xác định là khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, lời trình bày của
nguyên đơn về việc bị đơn vay tiền, mua điện thoại nhằm để phục vụ cho sinh hoạt
trong gia đình là có cơ sở nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn cùng có trách nhiệm trả
nợ được chấp nhận.
[7] Về thời gian thanh toán, nguyên đơn có yêu cầu bị đơn trả một lần hết số
tiền nợ trên, Hội đồng xét xử thấy rằng việc thanh toán thuộc thẩm quyền giải
quyết của Cơ quan thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật nên không đề
cập xem xét trong vụ án.
[8] Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, bị đơn phải chịu. Nguyên đơn
không phải chịu, số tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp được trả lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 430, 440, 466, 468 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ các Điều 144, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Việt S.
Buộc ông Lê Tấn T, bà Nguyễn Thị N trả cho anh Nguyễn Việt S các khoản
với tổng số tiền là 239.271.500 đồng (hai trăm ba mươi chín triệu hai trăm bảy
mươi mốt nghìn năm trăm đồng).
Kể từ ngày anh Nguyễn Việt S có đơn yêu cầu thi hành án, ông Lê Tấn T
cùng bà Nguyễn Thị N không tự nguyện thi hành xong thì phải trả thêm khoản lãi
phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự
tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Lê Tấn T, bà Nguyễn Thị N phải chịu số tiền 11.963.500 đồng (mười
một triệu chín trăm sáu mươi ba nghìn năm trăm đồng, chưa nộp).
4
Anh Nguyễn Việt S không phải chịu. Ngày 20/02/2025, anh S đã nộp số tiền
tạm ứng án phí là 5.798.952 đồng (năm triệu bảy trăm chín mươi tám nghìn chín
trăm năm mươi hai đồng) theo biên lai thu số 0003848 được trả lại toàn bộ cho anh
S.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND H.Phú Tân; (Đã ký)
- Lưu hồ sơ vụ án. Lâm Hoài Ân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Bản án số 865/2025/DS-PT ngày 05/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm