Bản án số 130/2025/DS-ST ngày 29/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 130/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 130/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 130/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 130/2025/DS-ST ngày 29/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 5 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh |
| Số hiệu: | 130/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 5 – TÂY NINH
¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Bản án số: 130/2025/DS-ST
Ngày: 29-9-2025
V/v Tranh chấp yêu cầu tháo dỡ, di dời
trụ điện, bình điện, đường dây điện
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 5 – TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy An
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Đinh Ngọc Dình
Ông Đinh Ngọc Minh
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Thị Quê - Thư ký Tòa án nhân dân Khu vực 5
– Tây Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 5 – Tây Ninh tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 5 – Tây
Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 31/2025/TLST-DS ngày 21 tháng
01 năm 2025 về “Tranh chấp yêu cầu tháo dỡ, di dời trụ điện, bình điện, đường
dây điện” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2025/QĐXXST-DS ngày
25 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức N, sinh năm 1993.
Người đại diện theo ủy quyền của ông N: Ông Nguyễn Phi H, sinh năm
1957. (có mặt)
Cùng địa chỉ: Số A ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Long An (nay là xã T, tỉnh
Tây Ninh).
(Văn bản ủy quyền ngày 26/11/2024, ngày 04/02/2025)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng N1, sinh năm 1983. (có mặt)
Địa chỉ: Số F ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Long An (nay là xã T, tỉnh Tây
Ninh).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Điện lực C, tỉnh Long An (nay là Đội quản lý điện T1 – Công ty Đ).
2
Địa chỉ: Số C Đ, Khu phố C, thị trấn T, huyện C, tỉnh Long An (nay là xã
T, tỉnh Tây Ninh)
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lương Văn M, chức vụ: Đội trưởng.
(vắng mặt)
2. Bà Trần Thị Ngọc B, sinh năm 1984. (có mặt)
Địa chỉ: Số F ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Long An (nay là xã T, tỉnh Tây
Ninh).
3. Ông Nguyễn Văn N2, sinh năm 1976. (vắng mặt)
Địa chỉ: Số A ấp B, xã T, huyện C, tỉnh Long An (nay là xã T, tỉnh Tây
Ninh).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/12/2024, trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Đức N do ông Nguyễn Phi H là người
đại diện theo ủy quyền trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Ông Nguyễn Phi H và ông Nguyễn Đức Nghĩa L cha con.
Ông Nguyễn Đức N được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CH 767557 ngày 19/4/2017 đối với thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27, diện
tích 789m
2
, loại đất lúa, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Long An. Nguồn gốc
thửa đất số 551 do ông H tặng cho ông N.
Năm 2020, ông Nguyễn Hoàng N1 có hỏi xin ông H và ông N cho đặt 02
cây trụ điện để kéo đường dây điện từ trạm điện về đầm nuôi tôm của ông N1 và
được cha con ông N đồng ý. Khi đó, ông N cho ông N1 đặt trụ kéo dây điện chỉ
là tạm thời, không lấy tiền đền bù mục đích là để khi nào ông H, ông N cần sử
dụng đất thì ông N1 có nghĩa vụ di dời 02 trụ điện và đường dây điện này đi nơi
khác.
Khi đó, Điện lực Châu T yêu cầu ông N1 phải thỏa thuận với chủ đất về
việc cho phép đặt trụ điện kéo đường dây điện qua đất thì Điện lực C mới đồng
ý lắp đặt đường dây điện cho ông N1 nên ông N1 và ông N có ký các văn bản
sau: Văn bản thỏa thuận năm 2020 và văn bản thỏa thuận ngày 12/8/2020 giữa
ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1. Ông H xác định việc ký các văn
bản này chỉ để hợp thức hóa thủ tục cho ông N1 và thực tế ông N1 không có đền
bù bất kỳ khoản tiền nào cho ông N.
Do hiện nay ông N có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất để cất nhà ra
ở riêng nên yêu cầu ông N1 di dời 02 trụ điện, bình điện và đường dây điện này
đi nơi khác nhưng ông N1 không đồng ý.
Theo đơn khởi kiện ngày 23/12/2024, ông N khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết:
3
+ Hủy văn bản thỏa thuận năm 2020 giữa ông Nguyễn Đức N và ông
Nguyễn Hoàng N1.
+ Hủy văn bản thỏa thuận ngày 12/8/2020 giữa ông Nguyễn Đức N và
ông Nguyễn Hoàng N1.
+ Yêu cầu ông Nguyễn Hoàng N1 di dời 02 trụ điện, bình điện và đường
dây điện của ông N1 có trên thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc tại xã
T, huyện C, tỉnh Long An do ông Nguyễn Đức N đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án ông N1 trình bày ông N1 và bà
Trần Thị Ngọc B là vợ chồng, trụ điện và hệ thống đường dây điện đang đặt trên
đất của ông Nghĩa L tài sản chung của vợ chồng ông N1, bà B nên ông N thay
đổi yêu cầu khởi kiện và xác định yêu cầu khởi kiện cuối cùng như sau:
Yêu cầu ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B thực hiện theo
thỏa thuận tại bản thỏa thuận năm 2020 và bản thỏa thuận ngày 12/8/2020 giữa
ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1 là tháo dỡ, di dời 02 trụ điện,
bình điện và đường dây điện thuộc sở hữu của vợ chồng ông N1, bà B đang đặt
trên thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Long An
do ông Nguyễn Đức N đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, nguyên đơn không còn yêu cầu khởi kiện nào khác, đề nghị Tòa
án giải quyết trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Bị đơn ông Nguyễn Hoàng N1 trình bày trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa như sau:
Ông N1 và bà Trần Thị Ngọc B là vợ chồng. Vào năm 2020, ông N1 và
ông N có ký bản thỏa thuận năm 2020 và bản thỏa thuận ngày 12/8/2020 để ông
N1 được đặt 02 trụ điện, bình điện và đường dây điện trên thửa đất số 551, tờ
bản đồ số 27, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Long An do ông Nguyễn Đức N
đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai trụ điện, bình điện và
đường dây điện nêu trên là tài sản chung của vợ chồng ông.
Hai bên thỏa thuận miệng ông H, ông N không lấy tiền đền bù việc đặt trụ
điện nhưng với điều kiện là ông N1 phải cho ông N kéo đường dây tải điện từ
bình điện của ông N1 về ruộng của ông N để ông N xông đèn thanh long, ông
N1 phải cam kết lấy tiền điện với giá gốc và 01 phần hao hụt điện. Ông N bắt
đầu kéo điện xông đèn thanh long từ lúc hạ bình năm 2020 cho đến cuối năm
2024 thì ông N1 không cho ông N sử dụng điện nữa.
Lý do ông không đồng ý để ông N tiếp tục sử dụng điện: Ông không biết
ông N, ông H có bao nhiêu gốc thanh long, ông chỉ biết là tại địa phương thì ông
H có 03 đám thanh long. Mọi năm ông vẫn ưu tiên cho ông H xông đèn trước 2
đám. Cuối năm 2024, ông H chỉ báo với ông là xông đèn nhưng không báo cụ
thể bao nhiêu đám thanh long. Ông cứ nghĩ là ông H xông 02 đám thanh long
như mọi năm, nhưng thực tế ông H tự ý xông 03 đám thanh long mà không báo
trước cho ông biết dẫn đến điện áp không đủ làm nhảy cầu dao chính. Khi đó,
4
ông điện thoại hỏi điện lực thì điện lực báo là nếu tình trạng quá tải còn tiếp diễn
thì sẽ gây cháy cầu chì, điện lực xuống thẩm định thì ông phải chịu chi phí từ
7.000.000 đồng trở lên. Ông có báo với ông H nhưng ông H không đồng ý, thậm
chí khi ông đang chạy quạt cho đầm tôm thì ông H yêu cầu nhường cho ông H
xông đèn. Do ông H vẫn xông đèn quá tải nên ông không cho ông H sử dụng
điện nữa.
Ngoài ông H sử dụng chung bình điện của ông thì ông còn cho ông
Nguyễn Văn N2 kéo điện về để xông đèn cho thanh long vì ông cũng phải đặt
nhờ trụ điện trên đất của ông N2 mới kéo điện về tới đầm tôm của ông được.
Việc đặt trụ điện trên đất của ông N2 cũng là không có đền bù và với điều kiện
như ông N. Tại địa phương thì ông N2 chỉ có 01 đám thanh long. Tuy nhiên, thứ
tự ưu tiên xông đèn bao giờ cũng ưu tiên cho ông H.
Hiện nay, ông N và ông H yêu cầu ông di dời trụ điện thì ông đồng ý
nhưng với điều kiện ông N, ông H phải chừa cho ông 01 phần đất khác để ông
đặt lại trụ điện và vị trí này phải nằm trên đường dây trung áp của ông.
Trong vụ án này, ông N1 không có khởi kiện tranh chấp với ai, đề nghị
Tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Ngọc B trình bày
trong quá trình giải quyết vụ án như sau:
Bà và ông Nguyễn Hoàng N1 là vợ chồng. Vào năm 2020, vợ chồng bà và
ông N có ký bản thỏa thuận năm 2020 và bản thỏa thuận ngày 12/8/2020 để vợ
chồng bà được đặt 02 trụ điện, bình điện và đường dây điện trên thửa đất số 551,
tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Long An do ông Nguyễn Đức
N đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai trụ điện, bình điện và
đường dây điện này là tài sản chung của vợ chồng bà. Bà thống nhất với lời trình
bày của ông N1 và không bổ sung gì thêm. Trong vụ án này, bà không có khởi
kiện tranh chấp với ai, đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của đương sự.
Do bà bận việc gia đình nên bà đề nghị được vắng mặt trong suốt quá
trình Tòa án các cấp giải quyết vụ án, kể cả nếu có tranh chấp phát sinh sau này
hoặc có sự thay đổi tư cách tham gia tố tụng trong vụ án. Yêu cầu được vắng
mặt trong tất cả các phiên hòa giải, kiểm tra chứng cứ, đối chất, thẩm định,… và
tất cả các phiên tòa của Tòa án các cấp. Đề nghị Tòa án các cấp không triệu tập
bà khi giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Điện lực C, tỉnh Long An (nay là
Đội quản lý điện T1 – Công ty Đ) trình bày tại Công văn số 249/ĐTV-KT ngày
23/9/2025 như sau:
Trong vụ án trên, Điện lực C, tỉnh Long An (nay là Đội quản lý điện T1 –
Công ty Đ) tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Đội Quản lý điện T1 với vai trò là đơn vị cung cấp điện chỉ có trách nhiệm
phối hợp thi hành theo quyết định/bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Vì
vậy, Đội Quản lý điện T1 đề nghị Tòa án nhân dân Khu vực 5 – Tây Ninh giải
quyết vắng mặt Đội Quản lý điện T1 trong suốt quá trình xét xử vụ án tại Tòa án
5
nhân dân các cấp. Sau khi quyết định/bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật,
Đội Quản lý điện T1 sẽ phối hợp thi hành theo đúng nội dung quyết định của
Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn N2 đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ, tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng
mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Ông Nguyễn Phi H trình bày: Trước đây để xông đèn cho thanh long thì
ông sử dụng nguồn điện từ bình điện trung áp của người khác cách ruộng của
ông khoảng 20m – 30m. Sau đó, ông N1 hỏi xin ông đặt trụ điện trên đất của cha
con ông thì cha con ông đồng ý và không lấy tiền đền bù để sau này cha con ông
có nhu cầu sử dụng đất thì ông N1 phải có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời trụ điện và
hệ thống đường dây điện này, các bên đã thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Từ
đó đến khoảng cuối năm 2024 thì ông chuyển sang sử dụng nguồn điện trung áp
của ông N1 và ông có nghĩa vụ trả tiền điện cho ông N1. Ông có 900 gốc thanh
long, kể từ khi ký hợp đồng với ông N1 thì số lượng thanh long không tăng chỉ
có giảm vì thanh long bị chết do sâu bệnh. Năm đầu thì ông N1 thực hiện đúng
cam kết cho ông xông đèn, sang năm tiếp theo thì bắt đầu gây khó khăn, đến
cuối năm 2024 thì không cho ông sử dụng điện nữa. Ông N1 cho rằng do ông
xông đèn gây quá tải là không đúng vì ngay từ đầu ông N1 đã biết diện tích
thanh long của ông là bao nhiêu, dự liệu được điện năng ông tiêu thụ và đồng ý
cho ông sử dụng điện chung. Hơn nữa, 01 năm ông chỉ xông đèn tổng cộng
khoảng 02 tháng còn lại 10 tháng ông N1 sử dụng toàn bộ. Theo ông thì nguyên
nhân gây quá tải theo lời trình bày của ông N1 do ông N1 còn cho ông N2 sử
dụng chung nguồn điện. Mặc dù, ông N2 cũng cho ông N1 đặt trụ điện trên đất
của ông N2 nhưng đó là trụ hạ thế còn trụ điện trên đất ông là 01 trụ trung thế,
01 trụ hạ thế nên ông là người bị giới hạn về quyền sử dụng đất nhiều hơn. Hiện
nay, do trồng thanh long bị lỗ vốn ông N cần chuyển mục đích sử dụng đất
thành đất ở để cất nhà ra riêng, trên đất có đường dây tải điện trung thế nên
không thể làm thủ tục được nên ông N yêu cầu ông N1 tháo dỡ, di dời trụ điện,
bình điện và đường dây điện này để ông N sử dụng đất. Ông N đồng ý cho ông
N1 thời hạn 06 tháng kể từ ngày xét xử sơ thẩm để ông N1 thực hiện việc tháo
dỡ, di dời. Do các bên đã thỏa thuận chi phí tháo dỡ, di dời do chủ đầu tư chịu
toàn bộ nên ông không đồng ý hỗ trợ cho ông N1 chi phí này.
Ông Nguyễn Hoàng N1 trình bày: Ông không biết ông H có bao nhiêu
gốc thanh long, ông chỉ biết tại địa phương thì ông H có tổng cộng 03 đám thanh
long. Kể từ khi ký hợp đồng với ông đến nay thì diện tích thanh long của ông H
không tăng. Theo thỏa thuận ban đầu thì ông H được xông đèn cùng một lúc 03
đám thanh long này. Năm đầu ông H vẫn xông đèn 03 đám thanh long cùng lúc,
sang đến năm tiếp theo thì ông H chia ra 02 đợt một đợt xông 02 đám và một đợt
xông đám còn lại. Đến năm 2024, ông H chỉ báo với ông là xông đèn nhưng
6
không báo xông bao nhiêu đám thanh long, ông nghĩ là ông H xông trước 02
đám như những lần trước nhưng thực tế ông H lại xông cả 03 đám cùng lúc mà
không báo cho ông biết. Do lo sợ ông H xông đèn gây quá tải làm cháy nổ cầu
chì nên ông có nói là nếu ông H còn xông đèn như vậy thì ông không cho ông H
sử dụng điện nữa nhưng ông H không đồng ý nên cuối năm 2024 ông không cho
ông H sử dụng điện chung.
Trước đây, ông có nuôi tôm với quy mô nhỏ nên ông sử dụng nguồn điện
sinh hoạt hàng ngày để chạy máy cho đầm tôm. Sau này, ông có nhu cầu mở
rộng kinh doanh nên mới thỏa thuận với ông H để đặt bình điện 75KVA trên đất
của ông H mới đủ điện áp sử dụng. Vợ chồng ông sử dụng nguồn điện sinh hoạt
khác với nguồn điện sản xuất, kinh doanh.
Các bên không có thỏa thuận về thời gian ông được đặt trụ điện 75KVA,
ông cũng không có đền bù cho ông N bất kỳ khoản tiền nào do việc ông đặt trụ
điện trên đất ông N. Hiện nay, ông N và ông H yêu cầu ông di dời trụ điện thì
ông đồng ý nhưng với điều kiện ông N, ông H phải chừa cho ông 01 phần đất
khác để ông đặt lại trụ điện và vị trí này phải nằm trên đường dây trung áp của
ông.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 5 – Tây Ninh phát biểu ý
kiến:
Về tố tụng: Đây là loại kiện “Tranh chấp yêu cầu tháo dỡ, di dời trụ điện,
bình điện, đường dây điện” thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự, thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Việc Tòa án tiến hành thụ lý là đúng thẩm
quyền theo quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; thủ
tục thụ lý vụ án và thông báo về việc thụ lý vụ án đúng quy định tại Điều 195,
196 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án đã tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại
Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự. Xác định tư cách tham gia tố tụng của các
đương sự và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng đúng theo Điều 68
Bộ luật Tố tụng dân sự; về trình tự thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự trong việc thu thập chứng cứ, xác minh và công khai chứng cứ
cũng như hòa giải.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa và của người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án; những người tham gia tố
tụng đã thực hiện quyền, nghĩa vụ và chấp hành nội quy phiên tòa do Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Xét thấy, việc thỏa thuận giữa ông N và ông N1 là thỏa thuận dân sự thể
hiện sự tự nguyện của các bên. Nay ông N không tự nguyện tiếp tục để cho ông
N1 thực hiện việc đặt trụ điện và kéo đường dây điện trên đất thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của ông Nghĩa L chính đáng. Mặt khác, thỏa thuận ngày
7
12/8/2020 giữa ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1 có nội dung
“...nếu sau này có xảy ra tranh chấp giữa các bên hoặc di dời... thì chủ đầu tư
chịu trách nhiệm giải quyết và chịu chi phí di dời công trình nêu trên...”. Nay
ông N muốn thực hiện thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất và cất nhà trên thửa
đất trên, xét thấy đây là nhu cầu chính đáng của chủ sở hữu, nên ông N1 có
nghĩa vụ tháo dỡ, di dời trụ điện và đường dây điện ra khỏi đất của ông N để
đảm bảo an toàn, thuận tiện cho việc sử dụng đất.
Ông N1 yêu cầu ông N phải chừa 01 phần đất khác để ông đặt lại trụ điện
và phải nằm trên đường dây trung áp của ông nhưng không được sự đồng ý của
ông N nên không chấp nhận.
Nguyên đơn tự nguyện cho bị đơn lưu tài sản trên đất 06 tháng để chuẩn
bị di dời nên ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 255, 256
Bộ luật Dân sự năm 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Ông Nguyễn Đức N khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần
Thị Ngọc B có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời 02 trụ điện, bình điện và đường dây điện
thuộc sở hữu của vợ chồng ông N1, bà B đang đặt trên thửa đất số 551, tờ bản
đồ số 27, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh Long An do ông N đứng tên trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp
là “Tranh chấp yêu cầu tháo dỡ, di dời trụ điện, bình điện, đường dây điện”. Đây
là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Khu vực
5 – Tây Ninh theo quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015, Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
[2] Về tư cách tham gia tố tụng:
Ông Nguyễn Đức N khởi kiện nên được xác định là nguyên đơn; ông
Nguyễn Hoàng N1 là người bị kiện nên được xác định là bị đơn; bà Trần Thị
Ngọc B, ông Nguyễn Văn N2 và Điện lực C, tỉnh Long An (nay là Đội quản lý
điện T1 – Công ty Đ) được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án. Việc ủy quyền của các đương sự hợp lệ nên được chấp nhận.
[3] Về việc vắng mặt của đương sự:
Ông Nguyễn Đức N do ông Nguyễn Phi H là người đại diện theo ủy
quyền, ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B có mặt; Điện lực C, tỉnh
Long An (nay là Đội quản lý điện T1 – Công ty Đ) vắng mặt, có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt; ông Nguyễn Văn N2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan,
không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
8
Điện lực C, tỉnh Long An (nay là Đội quản lý điện T1 – Công ty Đ) và ông N2
theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[4] Về thủ tục tiền tố tụng:
Vụ án liên quan đến yêu cầu tháo dỡ, di dời trụ điện, bình điện và đường
dây điện theo quy định không cần tiến hành thủ tục tiền tố tụng. Tuy nhiên,
tranh chấp của các đương sự đã được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Long
An hòa giải vào ngày 04/12/2024 kết quả hòa giải không thành.
[5] Về chứng cứ:
Các bên có quyền yêu cầu và có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh
cho lời trình bày của mình. Tòa án xét xử theo quy định tại Điều 6 và khoản 4
Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[6] Về phạm vi xét xử:
Căn cứ Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án xét xử trong phạm vi
yêu cầu khởi kiện của đương sự. Luật áp dụng là Bộ luật Dân sự năm 2015.
[7] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đức N, thấy rằng:
[7.1] Những nội dung các đương sự thống nhất:
Ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1 trình bày thống nhất hiện
nay trên thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc tại xã T, huyện C, tỉnh
Long An do ông N đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có 01 trụ
điện trung thế cao 14m có gắn bình điện 75KVA, 01 trụ điện hạ thế cao 7,5m và
hệ thống đường dây dẫn điện từ trụ điện trung thế qua trụ điện hạ thế về đầm
nuôi tôm của ông N1. Hai trụ điện, bình điện và đường dây dẫn điện này thuộc
quyền sở hữu của vợ chồng ông N1, bà B. Thỏa thuận đặt trụ dẫn điện được xác
lập theo các nội dung thể hiện tại văn bản thỏa thuận năm 2020 và văn bản thỏa
thuận ngày 12/8/2020 giữa ông N và ông N1. Các bên không có thỏa thuận thời
gian ông N1 được đặt trụ điện, việc đặt trụ dẫn điện là không có đền bù, ông N1
không thanh toán cho ông N bất kỳ khoản tiền nào. Căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 thì đây là các tình tiết không phải chứng minh.
[7.2] Những nội dung các đương sự không thống nhất:
Ông N1 trình bày ông N yêu cầu ông di dời trụ điện, bình điện và đường
dây dẫn điện thì ông đồng ý nhưng với điều kiện ông N, ông H phải dành cho
ông 01 phần đất khác để đặt lại trụ điện, vị trí này phải nằm trên đường dây
trung áp của ông thì ông đồng ý di dời. Yêu cầu này của ông N1 không được
ông H là người đại diện theo ủy quyền của ông N đồng ý nên phát sinh tranh
chấp.
[7.3] Xét văn bản thỏa thuận năm 2020 và văn bản thỏa thuận ngày
12/8/2020 giữa ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1, thấy rằng:
Văn bản thỏa thuận năm 2020 và văn bản thỏa thuận ngày 12/8/2020 được
giao kết giữa ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1, trong đó ông N
tham gia với tư cách là hộ dân có liên quan do có trụ điện trung thế và đường
9
dây tải điện trung thế đi qua đất, ông N1 tham gia giao kết với tư cách là chủ đầu
tư. Thỏa thuận này đã được Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Long An (nay
là xã T, tỉnh Tây Ninh) xác nhận.
Thấy rằng, các bên giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên hợp đồng có hiệu
lực thi hành. Các bên thống nhất “sau này có xảy ra tranh chấp giữa các bên có
liên quan hoặc di dời, giải tỏa đường dây phục vụ xây dựng đường giao thông,
công trình kiến trúc,... thì Chủ đầu tư chịu trách nhiệm giải quyết và chịu chi phí
di dời công trình nêu trên”.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông H trình bày hiện nay
ông N có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27 nêu
trên sang đất thổ để cất nhà ra ở riêng nên yêu cầu ông N1 thực hiện theo thỏa
thuận tháo dỡ, di dời 01 trụ điện trung thế cao 14m có gắn bình điện 75KVA, 01
trụ điện hạ thế cao 7,5m và hệ thống đường dây dẫn điện từ trụ điện trung thế
qua trụ điện hạ thế về đầm nuôi tôm của ông N1 ra khỏi thửa đất số 551 để ông
N sử dụng đất. Thấy rằng, ông Nghĩa L chủ sử dụng đất hợp pháp được Nhà
nước công nhận, ông N chưa được Nhà nước giải quyết bồi thường bất kỳ khoản
tiền nào liên quan đến quyền sử dụng đất tại thửa đất số 551 nêu trên (theo Công
văn số 617/UBND-TH ngày 12/9/2025 của Ủy ban nhân dân xã T, tỉnh Tây
Ninh) và việc ông N cho ông N1 đặt trụ điện để kéo đường dây tải điện trung thế
đi qua đất của ông Nghĩa L không có đền bù, không thỏa thuận thời gian đặt trụ
điện. Do đó, ông N có đầy đủ các quyền của 01 chủ sử dụng đất hợp pháp đối
với thửa đất số 551 nêu trên.
Mặt khác, ông N1 trình bày trước đây quy mô đầm nuôi tôm của ông N1
nhỏ nên ông sử dụng nguồn điện sinh hoạt để chạy máy cho đầm tôm. Sau này,
ông có nhu cầu mở rộng kinh doanh nên đầu tư hệ thống điện trung thế để chạy
máy cho đầm nuôi tôm. Nguồn điện dùng để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày của gia đình ông khác với nguồn điện trung thế phục vụ sản xuất kinh
doanh. Do đó, trong trường hợp này ông N1 muốn đặt trụ điện, bình điện
75KVA để kéo đường dây tải điện trung thế về phục vụ sản xuất kinh doanh thì
phải thỏa thuận và được sự đồng ý của chủ bất động sản liền kề, ông N1 không
thuộc trường hợp có quyền đối với bất động sản liền kề do địa thế tự nhiên và
mục đích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày theo quy định tại Điều 246,
255 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Hơn nữa, theo Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành Luật Điện lực về an toàn điện và Nghị định số
51/2020/ND-CP ngày 21/04/2020 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 quy định về hành
lang bảo vệ an toàn đường dây dẫn điện trên không có điện áp đến 220kV:
- Không được xây dựng nhà cửa, công trình, trồng cây vi phạm khoảng
cách sau: 2m về mỗi bên theo chiều rộng và bên trên theo chiều thẳng đứng, 3m
bên dưới dây dẫn theo chiều thẳng đứng.
10
- Không được xây dựng nhà cửa, công trình bằng vật liệu dễ cháy bên
dưới đường dây.
Do đó, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của ông N thì cần buộc
ông N1 và bà B thực hiện theo thỏa thuận tại bản thỏa thuận năm 2020 và bản
thỏa thuận ngày 12/8/2020 giữa ông N và ông N1 là tháo dỡ, di dời 02 trụ điện,
bình điện và đường dây điện thuộc sở hữu của vợ chồng ông N1, bà B đang đặt
trên thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27 do N đứng tên trên giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để ông N sử dụng đất theo đúng quy định tại Điều 26 Luật Đất đai
năm 2024 và Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ông N1 trình bày ông đồng ý di dời trụ điện, bình điện và đường dây tải
điện theo yêu cầu của ông N nhưng với điều kiện ông N, ông H phải dành cho
ông 01 phần đất khác để đặt lại trụ điện, vị trí này phải nằm trên đường dây
trung áp của ông. Yêu cầu này không được ông N đồng ý, các bên cũng không
có thỏa thuận vị trí khác để đặt lại trụ điện trên đất nên Hội đồng xét xử không
có cơ sở để xem xét.
[7.4] Về chi phí tháo dỡ, di dời:
Theo thỏa thuận tại văn bản thỏa thuận năm 2020 và văn bản thỏa thuận
ngày 12/8/2020 giữa ông Nguyễn Đức N và ông Nguyễn Hoàng N1 thì “Chủ
đầu tư chịu trách nhiệm giải quyết và chịu chi phí di dời công trình nêu trên”.
Tại phiên tòa, ông H không đồng ý hỗ trợ cho ông N1 chi phí tháo dỡ, di dời nên
ông N1 và bà B có nghĩa vụ chịu toàn bộ chi phí tháo dỡ, di dời công trình.
[7.5] Tại phiên tòa, ông H đồng ý cho ông N1 và bà B thời hạn 06 tháng
kể từ ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2025) để tháo dỡ, di dời các tài sản của
ông N1 và bà B gồm: 01 trụ điện trung thế cao 14m có gắn bình điện 75KVA,
01 trụ điện hạ thế cao 7,5m và hệ thống đường dây dẫn điện từ trụ điện trung thế
qua trụ điện hạ thế đang đặt tại thửa đất số 551 nêu trên là tự nguyện, không trái
quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Ông N1, bà B có nghĩa vụ
tháo dỡ, di dời xong toàn bộ tài sản ngay khi kết thúc thời hạn 06 tháng kể từ
ngày xét xử sơ thẩm.
[7.6] Ông Nguyễn Văn N2 là người sử dụng chung đường dây tải điện
trung thế do ông N1 là chủ đầu tư. Ông N2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, tống
đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt, không có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét.
Từ những phân tích trên thấy rằng, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
có căn cứ nên được chấp nhận. Chấp nhận toàn bộ đề nghị của Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa.
[8] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tổng cộng là 1.800.000 đồng:
Ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B có nghĩa vụ liên đới chịu toàn
bộ. Do ông Nguyễn Đức N đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng nên ông N1 và bà B
có nghĩa vụ liên đới trả cho ông N số tiền 1.800.000 đồng.
11
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B phải chịu án phí do yêu
cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức N được chấp nhận.
Ông Nguyễn Đức N không phải chịu án phí. H1 lại cho ông N tiền tạm
ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, 39, Điều 147, Điều 227, Điều
228, Điều 266, Điều 267, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 246, 255, 256 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 26 Luật Đất đai 2024;
Căn cứ Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân
khu vực; quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực;
Căn cứ các Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đức N về
việc “Tranh chấp yêu cầu tháo dỡ, di dời trụ điện, bình điện, đường dây điện”.
1.1. Buộc ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B có nghĩa vụ tháo
dỡ, di dời các tài sản của ông N1 và bà B gồm: 01 trụ điện trung thế cao 14m có
gắn bình điện 75KVA, 01 trụ điện hạ thế cao 7,5m và hệ thống đường dây tải
điện đang đặt tại thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27, đất tọa lạc tại xã T, huyện C,
tỉnh Long An (nay là xã T, tỉnh Tây Ninh) theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CH 767557 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Nguyễn
Đức N ngày 19/4/2017 ra khỏi thửa đất số 551, tờ bản đồ số 27 nêu trên. Toàn
bộ chi phí tháo dỡ, di dời các tài sản trên do ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần
Thị Ngọc B có nghĩa vụ chịu.
1.2. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Đức N cho ông Nguyễn
Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B thời hạn 06 tháng kể từ ngày xét xử sơ thẩm
(ngày 29/9/2025) để tháo dỡ, di dời các tài sản nêu trên. Kết thúc thời hạn 06
tháng kể từ ngày xét xử sơ thẩm (ngày 29/9/2025) nếu ông Nguyễn Hoàng N1
và bà Trần Thị Ngọc B chưa thực hiện việc tháo dỡ, di dời tài sản thì ông
Nguyễn Đức N có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thi hành quyết định của
Tòa án buộc ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B tháo dỡ, di dời các
tài sản nêu trên.
12
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tổng cộng là 1.800.000 đồng
(một triệu tám trăm nghìn đồng): Buộc ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị
Ngọc B có nghĩa vụ liên đới chịu toàn bộ. Do ông Nguyễn Đức N đã nộp tạm
ứng chi phí tố tụng nên ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B có nghĩa
vụ liên đới hoàn trả cho ông Nguyễn Đức N số tiền 1.800.000 đồng (một triệu
tám trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
3.1. Buộc ông Nguyễn Hoàng N1 và bà Trần Thị Ngọc B có nghĩa vụ liên
đới chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
3.2. Ông Nguyễn Đức N không phải chịu án phí. H1 lại cho ông Nguyễn
Đức N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo
biên lai thu số 0010708 ngày 17 tháng 01 năm 2025 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
4. Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo:
Án xét xử công khai sơ thẩm, báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa biết
có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt
được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản sao án hoặc từ
ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
5. Về quyền yêu cầu thi hành án:
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND Khu vực 5-Tây
Ninh;
- THADS tỉnh Tây Ninh;
- Đương sự;
- Lưu: hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thúy An
13
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Đinh Ngọc Dình – Đinh Ngọc Minh
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thúy An
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 10/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm