Bản án số 123/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 123/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 123/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 123/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 123/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 123/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp ranh giới là quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 123/2024/DS-PT
Ngày 26 - 9 -2024
V/v Tranh chấp ranh giới là quyền sử dụng đất.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Trọng và bà Nguyễn Thị Thu Hà
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thu Mai - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên toà:
Bà Hà Thị Loan - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 33/2024/TLPT-DS ngày 16 tháng 5
năm 2024 về việc Tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất. Do bản án dân sự sơ
thẩm số 03/2024/DS-ST ngày 14 tháng 3 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện
Bình Xuyên bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2024/QĐ-
PT ngày 04 tháng 7 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Kim T1, sinh năm 1959; trú tại: Thôn C, xã Q,
huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện hợp pháp của bà Đỗ Kim T1: Ông Đỗ Hà P1, sinh năm
1975; địa chỉ: Thôn X, x T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc - Là người đại diện theo
ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 02/5/2024) (c mt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh X, sinh năm 1963 (c mt);
Bà Nguyễn Thị Vân A, sinh năm 1972;
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị Vân A: Ông Nguyễn Thanh
X - Là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 13 tháng 5 năm 2022)
(c mt);
Đều trú tại: Thôn C, x Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc;
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Trung Đ, sinh năm 1994 (con bà T1); trú tại: Thôn C, xã Q,
huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (c mt);
- Anh Nguyễn Hoài N, sinh năm 1994;
2
Người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Hoài N: Ông Nguyễn Thanh X,
sinh năm 1963 - Là đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09 tháng 11
năm 2023) (c mt);
Đều trú tại: Thôn C, x Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc;
- UBND x Q, huyện B; địa chỉ: X Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Văn N – Chủ tịch UBND x Q
(vắng mt);
4. Người làm chứng: Ông Phí Lâm H, sinh năm 1968; trú tại: Thôn C, xã
Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mt);
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Đỗ Kim T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/11/2021 và các lời khai tiếp theo nguyên
đơn bà Đỗ Kim T1 và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Gia đình bà được Nhà nước cấp cho quyền sử dụng đất, c thu tiền sử dụng đất
từ năm 1993, theo Quyết định số 1871/QĐ –UB, ngày 25 tháng 12 năm 1993
của Ủy ban nhân dân (từ đây viết tắt là UBND) tỉnh Vĩnh Phú (cũ) trên cơ sở thu
hồi đất của Trạm ngoại thương Tam Đảo – Công ty xuất nhập khẩu Vĩnh Phú
(cũ) để giao đất cho hộ gia đình, gia đình bà nộp tiền để được bàn giao đất trên
thực địa. Cụ thể ha Quyết định 1871/QĐ –UB, ngày 25 tháng 12 năm 1993 của
UBND tỉnh Vĩnh Phú, thì ngày 28 tháng 5 năm 1995, UBND huyện Tam Đảo
(cũ), nay là UBND huyện Bình Xuyên c Quyết định cấp đất ở cho gia đình bà
theo Quyết định số 587/QĐ – UB; đến ngày 20 tháng 11 năm 1995 Phòng địa
chính huyện Bình Xuyên kết hợp với chính quyền địa phương chính thức bàn
giao đất trên thực địa cho gia đình bà; sau khi được bàn giao đất thì gia đình bà
tiếp tục sử dụng ổn định, xây dựng, kiến thiết công trình; đến ngày 18 tháng 12
năm 2006, gia đình bà được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chính thức cho chồng bà là ông Nguyễn Văn P (ông P đ chết năm 2016) là chủ
hộ; theo đ, gia đình bà được nhà nước giao diện tích đất 180m
2
, ở thửa đất số 06,
tờ bản đồ QH (13), ở Thôn C, x Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AB 896105.
Diện tích đất của gia đình bà c đc điểm phía Bắc giáp đất hộ ông Nguyễn
Thanh X, bà Nguyễn Thị Vân A (thửa đất số 05) c chiều dài 18m; phía Nam giáp
đất lưu không của UBND xã Q quản lý c chiều dài 13m + 7m chéo, (thành 20m)
phía Đông giáp đường giao thông của xm (mt tiền) rộng 10m; phía Tây giáp đất
lưu không của UBND xã Q c chiều rộng là 06m. Đối với các chiều các cạnh khác
không tranh chấp, riêng chiều về hướng Bắc, giáp nhà ông X, bà Vân A, (bố mẹ
anh N) thì khi xây dựng công trình là tường rào, nhà lớn đ lấn sang diện tích đất
nhà bà chiều rộng 2,2m (phía trước mt) và 0.90m (phía sau), chiều dài khoảng
18m, tổng diện tích đất lấn chiếm theo đơn khởi kiện và lời trình bày của bà T1 là
khoảng 26,4m
2
, tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06 tháng 6 năm 2022,
bà T1 chỉ trực tiếp vị trí lấn chiếm và các lời khai tiếp theo bà T1 cho rằng diện tích
gia đình ông X lấn chiếm là 27.7m
2
; trên phần đất lấn chiếm là 01 phần của ngôi
3
nhà 02 tầng của gia đình ông X; 01 phần sân gạch rộng 14.4m
2
; tường bao loan
bằng gạch xây và hàng rào bằng tôn kẽm; theo biên bản đo vẽ ngày 06 tháng 6 năm
2022, thì diện tích đất gia đình ông X lấn chiếm của gia đình bà c thể hiện ở sơ đồ,
c thông tin ở các cạnh là A,B,5,6,C,7,D.
Nay ông P đ chết, bà là vợ ông P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
gia đình ông Nguyễn Thanh X, bà Nguyễn Thị Vân A phải trả cho gia đình bà diện
tích đất lấn chiếm là 26.4m
2
, ở thửa đất số số 06, tờ bản đồ QH (13), ở Thôn C, xã
Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; đồng thời dỡ bỏ 01 phần ngôi nhà 02 tầng xây dựng
bằng bê tông, cốt thép, xây gạch, mái tôn, 01 phần sân gạch diện tích sử dụng
14,4m
2
; 01 đoạn tường bao loan xây gạch, trát cát xi măng, sơn trắng c chiều
cao 2,7m, chiều dài 10,28m; 01 đoạn tường bao loan trước mt của ngôi nhà lớn
xây gạch phía dưới, phía trên là hàng rào sắt c chiều cao 2.15m, chiều rộng
2,20m; diện tích đất đo hiện trạng là 27,7m
2
.
Về chi phí tố tụng trong việc thu thập chứng cứ xem xét, thẩm định tại
chỗ và định giá tài sản, bà T1 xin chịu trách nhiệm thanh toán, không yêu cầu
Tòa án xem xét, giải quyết.
Bị đơn là ông Nguyễn Thanh X, đồng thời là người đại diện hợp pháp
của bà Nguyễn Thị Vân A, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là anh Nguyễn Hoài N trong quá trình giải quyết vụ án, ông X trình
bày:
Ông không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của bà T1 đối với gia đình ông
vì gia đình ông cũng được Nhà nước giao diện tích đất 180m
2
, ở thửa đất số 05, tờ
bản đồ số 13 (QH), tại Thôn C, x Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, từ năm 1993; sau
đ gia đình ông sử dụng ổn định, liên tục; ban đầu là làm lò sản xuất gạch ngi; đến
khoảng năm 1994- 1995 khi không sản xuất gạch, ngi nữa thì gia đình ông dỡ lò,
lấy gạch xây dựng công trình, hàng rào, tường bao loan xung quanh thửa đất từ
khoảng năm 1994 – 1995 đến nay, khi gia đình ông xây dựng không ai phản đối,
không ai thắc mắc gì về mốc giới; ngày 16 tháng 9 năm 2003, UBND x Q, huyện
B đ cấp “Giấy chứng nhận được tạm quyền sử dụng đất thổ cư” đứng tên ông với
diện tích là 293m
2
; để ông vay vốn ngân hàng; trong đ phần mt đường xm ở
phía Đông của thửa đất giáp đường xm là 13.0m; chiều phía Nam giáp ranh với
hộ gia đình bà T1 (ông P, là chồng bà T1 đ chết) là 19m; được địa phương khẳng
định là đất không c tranh chấp với ai, gia đình ông P, bà T1 cũng đ xây dựng
công trình nhà ở, công trình phụ áp sát phần sau lưng của ngôi nhà lớn và phần đầu
hồi của công trình phụ hết phần đất của gia đình ông P, giáp ranh với gia đình ông;
đến ngày 18 tháng 12 năm 2006 UBND huyện Bình Xuyên cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chính thức cho gia đình ông với diện tích là 180m
2
, thì chiều
mt đường là 10m, chiều giáp ranh với hộ ông P là 18m; quá trình sử dụng đất thì
gia đình ông nhận chuyển nhượng được thêm một phần diện tích đất canh tác của
các hộ gia đình khác ở phía sau thửa đất, để thành diện tích đất như hiện trạng ngày
nay; trên cơ sở đ đến năm 2020 khi gia đình ông xây dựng nhà lớn cùng công
trình xây dựng của gia đình, thì gia đình ông đ xây dựng đúng mốc giới với gia
đình bà T1, ông sử dụng đúng diện tích được giao, ông xây dựng, cải tạo lại tường
4
rào làm ranh giới của gia đình đôi bên từ nền tường mng cũ, đập vôi vữa ra, trát
lại, khi xây không ai phản đối, không ai thắc mắc gì về mốc giới nên không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1.
Tại thời điểm tạo dựng mua thanh lý diện tích đất này thì các con của ông
còn nhỏ, không c công sức gì đng gp; đến năm 2020 khi xây dựng công trình
nhà lớn, cải tạo lại tường rào, công trình, tài sản mà gia đình bà T1 yêu cầu dỡ bỏ,
thì tài sản này là của vợ chồng ông và con trai là Nguyễn Hoài N, không liên quan
đến ai khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Trung Đ có mặt
tại phiên tòa và trình bày: Anh là con duy nhất của bà Đỗ Kim T1 và ông
Nguyễn Văn P, (ông P đ chết), đối với diện tích đất 180m
2
, ở thửa đất số 06, tờ
bản đồ QH (13), ở Thôn C, x Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, đ được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bố anh là ông Nguyễn Văn P, khi nhà
nước cấp, giao cho gia đình anh diện tích đất này thì anh còn nhỏ, không c công
sức gì trong việc tạo dựng lên khối tài sản này, tuy nhiên do anh là người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của bố anh, nên anh c quyền lợi đối với diện tích đất này;
nay anh nhất trí với yêu cầu khởi kiện của mẹ anh là bà Đỗ Kim T1.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Hoài N trình bày:
Anh là con trai của ông X, bà Vân A hiện nay đang sinh sống, cư trú cùng ông X
và bà Vân A; bố mẹ anh sinh được hai người con là anh và em gái, sinh năm
1994, khi anh và em gái anh sinh ra đ c diện tích đất này, nên anh em không
c công sức gì để tạo dựng lên diện tích đất. Về nguồn gốc diện tích đất đang
tranh chấp và quá trình sử dụng đất anh xác nhận những nội dung như ông X đ
trình bày là đúng; kể từ khi được mua thanh lý, gia đình anh đ sử dụng ổn định;
từ những năm 1995 thì ông P đ xây dựng tường nhà, tường công trình phụ bằng
gạch cũ dỡ ra để làm mốc, ranh giới giữa gia đình anh với gia đình ông P, bà T1,
đến năm 2020 gia đình anh xây dựng, kiến nhà lớn, sửa chữa lại nhà cửa, tường
rào, trên nền mng cũ, cố định như ngày nay, khi xây dựng thì lúc đ bà T1 có
biết cũng không ai phản đối gì về ranh giới, mốc giới; nên gia đình anh không
lấn chiếm đất của gia đình bà T1; nay bà T1 khởi kiện, yêu cầu gia đình anh phải
tháo dỡ tài sản trên đất, trả lại diện tích đất lấn chiếm là 26,4m
2
, anh không đồng
ý vì những tài sản này là của gia đình; trong đ c cả công sức đng gp của anh
nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1; anh c vợ là chị Lê Thị N,
sinh năm 1996, quê ở x T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, xong anh chị mới kết hôn
tháng 01 năm 2022 nên vợ anh không c công sức đng gp gì, bản thân em gái
anh là Nguyễn Thị Minh P cũng không c công sức gì đng gp, không quản lý
tài sản này nên cũng không liên quan gì đến tài sản tranh chấp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND xã Q, đại diện của
UBND xã Q trình bày: Về nguồn gốc sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Thanh X
và bà Đỗ Kim T1 (chồng là ông Nguyễn Văn P đ chết) được Trạm Ngoại
Thương - Tam Đảo (cũ) ở thôn C, xã Q bán thanh lý khu vực đất của Trạm
Ngoại Thương mà Nhà nước giao cho. Trên cơ sở bản đồ quy hoạch do Trạm
Ngoại Thương vẽ quy hoạch phân lô, bán nền và được các cấp chính quyền địa
5
phương phê duyệt. Trên cơ sở đ Trạm Ngoại Thương bán thanh lý cho các hộ
từ những năm 1994- 1995 và UBND xã Q giao đất cho các hộ c tiêu chuẩn
được giao đất trên thực địa.
Đến năm 2006 hộ bà Đỗ Kim T1 được cấp GCNQSDĐ đứng tên chồng
bà T1 là ông Nguyễn Văn P với diện tích là 180m
2
ở thửa đất số 06, tờ bản đồ
QH(13) do UBND huyện Bình Xuyên cấp ngày 18/12/2006. Cũng trong thời
điểm đ UBND huyện Bình Xuyên cũng cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn
Thanh X ở thửa đất số 05, tờ bản đồ QH(13) với diện tích là 180m
2
.
Về hồ sơ quản lý hai thửa đất trên thì hiện tại UBND xã Q chỉ còn lưu
giữ bản đồ 299 được lập năm 1987, thể hiện diện tích đất tranh chấp giữa hai hộ.
Tuy nhiên, tại bản đồ 299 thể hiện tổng thể cả diện tích đất của Trạm Ngoại
Thương Tam Đảo (cũ), tổng thể c diện tích đất của các hộ được cấp, được giao
cho cả Trạm Ngoại Thương Tam Đảo chưa chia tách theo bản đồ QH ngày
25/12/1993 của Trạm Ngoại Thương Tam Đảo.
Bản đồ VN 2000, đo vẽ năm 2008 đang lưu trữ, quản lý của UBND xã Q
thể hiện vị trí đất của hai hộ ở thửa đất số 529 (hộ ông X) và 530 (hộ bà T1).
Theo sổ mục kê thửa đất 529 đứng tên Nguyễn Thanh X bà Nguyễn Thị
Vân A, thửa 530 đứng tên ông Nguyên Xuân P bà Đỗ Kim T1.
Đối với bản đồ QH của Trạm Ngoại Thương Tam Đảo quy hoạch vẽ
tổng thể diện tích đất của Trạm Ngoại Thương Tam Đảo (cũ) để phân lô, bán
thanh lý cho các hộ c xác nhận, đng dấu của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Nông
lâm nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, Công ty xuất nhập khẩu Vĩnh Phúc ( Công ty Ngoại
thương tên thường gọi là Trạm Ngoại Thương Tam Đảo), UBND huyện Tam
Đảo, Ban quản lý ruộng đất (Phòng Tài Nguyên và Môi trường hiện nay) và
UBND xã Q, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc (nay là UBND xã Q huyện Bình
Xuyên) thì qua quản lý, theo dõi thì bản đồ QH (tức bản đồ quy hoạch) này chưa
được số ha, chưa được hoàn chỉnh chính thức để đưa vào hệ thống quản lý dữ
liệu quốc gia về hệ thống bản đồ trên toàn quốc, hiện tại UBND xã Q không lưu
trữ văn bản chính hệ thống bản đồ này, không c để cung cấp cho Tòa án. Việc
cấp GCNQSDĐ cho các hộ gia đình căn cứ vào bản đồ này nên khi UBND xã Q
cấp trích lục thửa đất cho các hộ vay vốn hay làm các thủ tục khác thì căn cứ
vào sơ đồ đo vẽ trên GCNQSDĐ đ cấp cho các hộ.
Hiện trạng sử dụng đất của hộ bà T1 và hộ ông X c sự biến động rất lớn
so với GCNQSDĐ, theo địa phương đất của 02 hộ này c sự biến động là do các
hộ mua của các hộ c đất xung quang để làm vườn và lấn sang phạm vi đất lưu
không do UBND xã Q quản lý. Hiện nay hộ ông X, bà T1 đang sử dụng phần
đất lưu không của UBND để trồng cây hoa màu ngắn ngày và xây dựng các
công trình tạm nên UBND x chưa đề cập xử lý, thu hồi. Sau này, nếu UBND x
cần đến thì sẽ thu hồi và giải quyết theo thủ tục hành chính, đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Phúc giải quyết vụ án theo quy định.
Người làm chứng là ông Phí Lâm H trình bày: Gia đình ông c diện tích
đất 180m
2
, ở thửa đất số 04, tờ bản đồ QH 13, tại Thôn C, x Q, huyện B, tỉnh
6
Vĩnh Phúc; đ được UBND huyện Bình Xuyên cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 17 tháng 8 năm 2012; nguồn gốc diện tích đất là do gia đình ông
nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Ngọc B; có các chiều
các cạnh: Phía Bắc giáp ô đất số 03 của bà T, ông B, c chiều dài là 18,0m; cạnh
phía Nam giáp ô đất số 05 hộ ông Nguyễn Thanh X, c chiều dài 18,0m; cạnh
phía Đông giáp đất lưu không do UBND x quản lý, c chiều rộng là 10,0m;
cạnh phía Tây giáp đường dân sinh, c chiều rộng là 10,0m; quá trình sử dụng
đất đối với chiều phía Bắc, phía Đông, phía Tây không c tranh chấp, không lấn
ra đất lưu không và hành lang giao thông; riêng chiều về hướng Nam giáp đất hộ
ông Nguyễn Thanh X thì gia đình ông X lấn chiếm diện tích chiều mt đường
khoảng 1,2m chiều rộng, kéo dài hết đất của gia đình ông; diện tích đất lấn
chiếm khoảng là 22m
2
. Sau khi biết việc lấn chiếm, gia đình ông cũng c gp gỡ
gia đình ông X tìm cách, hướng giải quyết, xong do diện tích lấn chiếm gia đình
ông X đ xây dựng công trình; ông X cũng c ý kiến là sau này nếu gia đình ông
yêu cầu lấy lại thì gia đình ông X sẽ trả, do gia đình ông chưa c nhu cầu sử
dụng và gia đình ông X đ cam kết như vậy nên gia đình ông chưa c yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình ông trong vụ án này.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2024/DS-ST
ngày 14/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên quyết định:
Căn cứ vào các Điều 166, 170, 179, 202 và Điều 203 của Luật Đất đai;
Điều 166 và Điều 175 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Kim T1 về
việc buộc ông Nguyễn Thanh X, bà Nguyễn Thị Vân A phải trả diện tích đất
27,7m
2
, ở thửa đất số 05, tờ bản đồ số QH (13), ở thôn C, x Q, huyện B, tỉnh
Vĩnh Phúc và yêu cầu tháo dỡ công trình, tài sản trên đất bao gồm 01 phần ngôi
nhà 02 tầng xây dựng bằng bê tông, cốt thép, xây gạch, mái tôn; 01 phần sân
gạch diện tích sử dụng 14,4m
2
; 01 đoạn tường bao loan xây gạch, trát cát xi
măng, sơn trắng c chiều cao 2,7m, chiều dài 10,28m; 01 đoạn tường bao loan
trước mt của ngôi nhà lớn xây gạch phía dưới, phía trên là hàng rào sắt c chiều
cao 2.15m, chiều rộng 2,2m.
Bản án còn quyết định về án phí, chi phí thẩm định, định giá và quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/3/2024, nguyên đơn bà Đỗ Kim T1
kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc sửa bản án dân sự sơ thẩm
số 03/2024/DS-ST ngày 14/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên theo
hướng chấp nhận đơn khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia
phiên toà phát biểu ý kiến:
7
Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm
đến khi c quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán và Thư ký đ thực hiện
đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đ tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự từ khi khai mạc phiên toà đến trước khi nghị án, đảm bảo vô tư,
khách quan, đúng quy định pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1
Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà
Đỗ Kim T1, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm 03/2024/DS-ST ngày 14/3/2024
của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu c trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét
thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật
định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Người c quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND xã Q c đơn đề nghị xét
xử vắng mt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mt đại diện UBND xã
Q theo khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải tháo
dỡ công trình xây dựng trên phần diện tích đất giáp ranh với thửa đất của
nguyên đơn để trả lại diện tích đất. Do đ, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp ranh giới là quyền sử dụng đất” là c căn
cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Đỗ Kim Thoa c diện tích đất
180m
2
, ở thửa đất số 06, tờ bản đồ số QH (13) được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đứng tên hộ ông Nguyễn Văn P (chồng bà T1, đ chết) giáp ranh với
thửa đất số 05, diện tích đất 180m
2
, tờ bản đồ số QH (13) của hộ ông Nguyễn
Thanh X. Năm 2020, gia đình ông X c xây dựng nhà và công trình trên diện
tích đất của gia đình. Nguyên đơn cho rằng gia đình ông X đ xây dựng công
trình lấn sang nhà bà c diện tích 27,7m
2
đất, cụ thể phía Bắc (mt đường) lấn
2,2m, phía Tây sau nhà lấn 0,9m, là một đường thẳng kéo dài từ phía Đông sang
phía Tây của thửa đất về phía Bắc. Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa
án tiến hành thẩm định lại thì phía nguyên đơn xác định gia đình ông X không
xây lấn sang phần đất của nguyên đơn về phía Bắc mà xây lấn vào phần đất theo
hướng Tây (phía sau nhà) c diện tích là 5,8m
2
cụ thể phía Bắc 0,86m, phía Tây
6m, phía Nam 0,9m + 0,58m, phía Đông là 6,71m + 0,46m, theo sơ đồ hiện
trạng ngày 09/8/2024 là hình 1-2-3-4-5-6-1. Nguyên đơn yêu cầu gia đình ông X
phải tháo dỡ công trình trên phần diện tích đ xây để trả lại cho nguyên đơn.
[3.1]. Tại cấp sơ thẩm đ xác định gia đình ông X đ xây công trình trên
một phần diện tích đất do Ủy ban nhân dân x Q quản lý và tiến hành làm việc
8
với Ủy ban, Ủy ban c quan điểm đối với phần đất đương sự xây dựng công
trình trên phần diện tích đất do Ủy ban quản lý thì Ủy ban không c ý kiến gì,
sau này nếu c sẽ khởi kiện bằng vụ việc khác. Cấp sơ thẩm không đưa Ủy ban
nhân dân xã Q vào tham gia tố tụng với tư cách là người c quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là c sai xt. Tại cấp phúc thẩm đưa bổ sung Ủy ban nhân dân x Q
vào tham gia tố tụng với tư cách là người c quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại
diện của Ủy ban vẫn giữ nguyên quan điểm như trên. Việc sai xt trên không
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của đương sự, cấp phúc thẩm đ
khắc phục nên không cần thiết phải hủy án để giải quyết lại vụ án. Đề nghị cấp
sơ thẩm nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[3.2]. Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn:
Qua xác minh tại địa phương và lời khai của các đương sự thì nguồn gốc
thửa đất số 05 và 06 tờ bản đồ QH (13) tại thôn C, x Q, huyện B, tỉnh Vĩnh
Phúc c nguồn gốc là của Trạm ngoại thương Tam Đảo – Công ty xuất nhập
khẩu Vĩnh Phú (cũ), sau đ các hộ gia đình được Nhà nước giao đất c thu tiền
và các hộ gia đình sử dụng ổn định từ khoảng những năm 1994-1995 đến năm
2021 thì phát sinh tranh chấp. Tại cấp sơ thẩm thì nguyên đơn cho rằng phần
tường rào nhà ông X tiếp giáp với nhà bà T1 xây lấn vào phần đất của gia đình,
tuy nhiên tại cấp phúc thẩm thì nguyên đơn khẳng định tường rào không xây lấn
vào phần đất của gia đình nguyên đơn mà chỉ c ngôi nhà bếp và công trình phụ
của gia đình ông X xây lấn 5,8m
2
vào đất phía Tây (phía sau thửa đất) của
nguyên đơn. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mc dù khi áp Mt bằng hiện trạng quy
hoạch trạm Ngoại thương- Tam Đảo ngày 25/12/1993 vào sơ đồ hiện trạng thì
một phần công trình nhà bếp của gia đình ông X c nằm trên phần diện tích đất
của gia đình bà T1 là 5,8m
2
(theo sơ đồ). Tuy nhiên, Mt bằng hiện trạng quy
hoạch trạm Ngoại thương- Tam Đảo là bản vẽ tay, chưa c hệ tọa độ, chưa được
điều chỉnh trên bản đồ 299 nên khi áp bản đồ quy hoạch vào hiện trạng sử dụng
đất sẽ không chính xác. Hơn nữa, năm 2020, gia đình ông X xây dựng công
trình trên diện tích đất như hiện trạng hiện nay, hộ gia đình bà T1 không có ý
kiến gì; qua đo đạc hiện trạng thực tế thì diện tích đất của các hộ gia đình đều
thừa so với diện tích được cấp trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; theo
hiện trạng, chiều rộng của đường ngõ phần tiếp giáp với thửa đất gia đình bà T1
c chiều rộng là 3,8m lớn hơn chiều rộng đường ngõ (đường ngõ rộng 3m) tại
phần tiếp giáp với thửa đất của gia đình bà T1 trong Mt bằng hiện trạng quy
hoạch trạm Ngoại thương- Tam Đảo ngày 25/12/1993 (BL 206) là 0,8m nên
không thể xác định các công trình của gia đình bà T1 khi xây dựng c xây hết
phần đất của gia đình bà hay không từ đ không thể xác định tường rào giáp
đường ngõ của gia đình bà T1 là mốc giới của thửa đất với đường ngõ.
Vì vậy, không c căn cứ cho rằng gia đình ông X xây lấn vào diện tích đất
của gia đình bà T1 ở phía Tây (phía sau đất). Cần xác định ranh giới phần đất
của hai hộ gia đình bà T1 và ông X đang quản lý là đường thẳng gấp khúc c
các chiều là 17,14m + 6,71m + 0,46m + 3,02m là hình 7-6-1-2-13 trên sơ đồ
hiện trạng ngày 09/8/2024 (c sơ đồ kèm theo).
9
[4]. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và thu thập tài liệu chứng cứ cũng
thể hiện ngoài diện tích đất được cấp, được giao theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì gia đình bà T1, ông X còn trồng cây cối, xây dựng công trình trên
phần diện tích đất ngoài giấy chứng nhận quyển sử dụng đất được cấp, mà phần
diện tích đất này do UBND xã Q quản lý. Tuy nhiên, do là đất lưu không, địa
phương chưa sử dụng đến, việc sử dụng của các hộ gia đình chưa làm ảnh hưởng
đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương, UBND x không đề nghị
giải quyết trong vụ án này, sau này c yêu cầu sẽ đề nghị giải quyết bằng một vụ
việc khác. Nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5]. Từ phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
[6]. Về chi phí tố tụng: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện và không
chấp nhận đơn kháng cáo nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng là:
Lần 1 là 4.800.000 đồng, lần 2 là: 3.900.000đồng; tổng 8.700.000đồng; xác
nhận nguyên đơn đ nộp đủ.
[7]. Về án phí: Nguyên đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm, án phí phúc
thẩm do là người cao tuổi.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Đỗ Kim T1.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm 03/2024/DS-ST ngày 14/3/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên.
Căn cứ vào các Điều 166, 170, 179, 202 và Điều 203 của Luật Đất đai;
Điều 166 và Điều 175 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[1]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Kim T1
về việc buộc ông Nguyễn Thanh X, bà Nguyễn Thị Vân A phải trả diện tích đất
27,7m
2
, ở thửa đất số 05, tờ bản đồ số QH (13), ở thôn C, x Q, huyện B, tỉnh
Vĩnh Phúc và yêu cầu tháo dỡ công trình, tài sản trên đất bao gồm 01 phần ngôi
nhà 02 tầng xây dựng bằng bê tông, cốt thép, xây gạch, mái tôn; 01 phần sân
gạch diện tích sử dụng 14,4m
2
; 01 đoạn tường bao loan xây gạch, trát cát xi
măng, sơn trắng c chiều cao 2,7m, chiều dài 10,28m; 01 đoạn tường bao loan
trước mt của ngôi nhà lớn xây gạch phía dưới, phía trên là hàng rào sắt c chiều
cao 2,15m, chiều rộng 2,2m.
[2]. Về chi phí tố tụng: Bà Đỗ Kim T1 phải chịu 8.700.000 đồng, xác
nhận bà Đỗ Kim T1 đ nộp đủ.
10
[3]. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm cho bà Đỗ Kim
Thoa.
[4]. Bản án phúc thẩm c hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Bình Xuyên;
- VKSND huyện Bình Xuyên;
- Chi cục THADS huyện Bình Xuyên;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa DS.NHÂN DÂN
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 123/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 123/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm