Bản án số 105/2021/HS-PT ngày 24/11/2021 của TAND tỉnh Nam Định về tội giữ người trái pháp luật
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án 105/2021/HS-PT Nam Định
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 105/2021/HS-PT Nam Định
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 105/2021/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 105/2021/HS-PT ngày 24/11/2021 của TAND tỉnh Nam Định về tội giữ người trái pháp luật |
---|---|
Tội danh: | 157.Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nam Định |
Số hiệu: | 105/2021/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/11/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Văn N phạm tội “Giữ người trái pháp luật” |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
|
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 105/2021/HS-PT NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Ngày 24 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2021/TLPT-HS ngày 21 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện X1.
- Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm: 1979; Giới tính: nam; Nơi cư trú: Xóm 10 xã X, huyện X1, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn) 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức V, sinh năm 1954; con bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1954; Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ 2; vợ Đỗ Thị C, sinh năm 1981; có 01 con, sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 15/10/1996 TAND huyện Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Hà xử phạt 3 tháng 22 ngày tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 29/5/1997 TAND huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xử phạt 9 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 28/8/1998 TAND tỉnh Hà Tây xử phạt 5 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 23/11/2006 TAND huyện X1, tỉnh Nam Định xử phạt 9 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 04/11/2012 Công an huyện Xuân Trường xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Ngày 23/4/2013 bị UBND tỉnh Nam Định ra Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời gian 24 tháng. Ngày 16/11/2017 TAND huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Ra trại ngày 15/4/2019. Bị bắt khẩn cấp ngày 03-6-2021. Có mặt.
- Bị hại: Anh Phạm Ngọc T, sinh năm: 1972; Nơi cư trú: Xóm 18 xã X, huyện X1, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
- Người làm chứng: Anh Nguyễn Thế H. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Văn N là đối tượng nhiều lần phạm tội, sau khi chấp hành án về thường xuyên đánh đập bạo hành vợ con nên vợ N đã bỏ nhà đi không rõ địa chỉ. Từ đó, N nghi ngờ có những người đàn ông khác quan hệ bất chính với vợ mình. Ngày 01/6/2021, N nảy sinh nghi ngờ anh Phạm Ngọc T ở xóm 18, làm nghề buôn bán gas có quan hệ bất chính với chị Chín nên đã lên kế hoạch trả thù. Khoảng 14 giờ 30’ cùng ngày, N dùng điện thoại của mình gọi cho anh T chở 01 bình gas đến nhà bố đẻ là ông Nguyễn Đức V nhà cạnh nhà N. Biết N là người không đáng tin nên anh T không chở. Chờ 30 phút không thấy anh T đến, lúc này Nguyễn Thế H là bạn N đến chơi, N tiếp tục bấm điện thoại và bảo H nói anh T chở gas đến nhà N, anh T nhận ra giọng nói của H nên đồng ý. Anh T đi xe máy Dream II chở 01 bình gas đến nhà N. Khoảng 15 giờ 50 phút anh T đến nơi, N bảo anh T đem vào phòng bếp lắp còn N và H ngồi uống nước ở phòng khách. Nhà của N là nhà ống nên N đứng dậy khoá cửa phòng khách lại, cất chìa khoá vào túi quần. H hỏi “sao lại khoá cửa”, N nói “khoá cửa là việc của tôi”. Anh T lắp xong lên thấy phòng khách khoá cửa nên hỏi “sao nóng thế này các ông lại đóng cửa”, N nói “Tao khoá cửa là để xử mày, tao đi tù mày ở nhà đã ngủ với vợ tao”, anh T nói không có việc đó thì N túm cổ áo anh T, dùng tay đấm nhiều phát vào mặt và vào đầu, dùng chân đạp vào người anh T làm anh T ngã ra nhà, tay phải va vào gầm xe máy bị xước da chảy máu. N lấy từ gầm bàn đoạn gỗ dài khoảng 57cm, đường kính đầu to là 4cm, đầu nhỏ là 2,5cm quấn dây cao su quật nhiều phát vào lưng, vào sườn và 01 phát vào mặt anh T đồng thời đe doạ bắt anh T nhận quan hệ bất chính với vợ N nhưng anh T khẳng định là không có. N lấy viên gạch đỏ (20x10x5)cm doạ bắt đưa điện thoại cho N để anh T không liên lạc ra ngoài. N lấy Heroine trong bao thuốc lá ra hít sau đó vào trong phòng ngủ lấy con dao tự chế rộng 05cm, mũi nhọn, cán làm bằng đoạn tuýp đường kính 2,1cm dài 1,7cm và 01 rìu cán gỗ dài 1,5m ra chỉ vào mặt anh T bảo “Tao vừa xử xong con vợ tao, bây giờ đến lượt tao xử mày”. Anh T sợ van xin thả ra, N không thả và tiếp tục đem Heroine ra hít và đe doạ anh T. Khoảng 16 giờ 15’ cùng ngày, chị Nguyễn Thị D là vợ anh T thấy chồng đi đã lâu chưa về nên gọi điện thoại cho anh T. Do máy mới thay sim nên không hiện tên chị D, N bấm nút trả lời và bảo anh T nghe. Anh T báo cho chị D “Anh bị chú N khoá, giữ trong nhà chưa về được”. Thấy vậy, N tắt điện thoại và đấm vào mặt anh T. Khoảng 5 phút sau biết việc giữ anh T đã lộ nên N đưa chìa khoá bảo H mở cửa ra nhưng vẫn giữ anh T trong nhà. Khoảng 16 giờ 30’ cùng ngày, chị D và anh Huân đến nhà N, anh T chạy ra ngoài, N chạy theo kéo anh T lại nhưng bị chị D và anh Huân cản nên anh T được giải cứu. N bảo H dắt xe anh T ra ngoài cổng, N đưa điện thoại của anh T cho chị D, anh T đến lấy lại bình gas. Công an xã X cũng đến ngay lập biên bản.
Hậu quả, anh T bị đau nhiều chỗ trên cơ thể (đỉnh đầu, mặt, lưng, ngực, sườn trái) và bị vết rách da chảy máu giữa mặt trước cẳng tay phải (2 x 1,4)cm nên phải đến Trung tâm y tế huyện X1 điều trị từ ngày 02/6/2021 đến ngày 08/6/2021.
Cơ quan điều tra khám nghiệm hiện trường đã thu giữ 02 điện thoại di động, 01 rìu, 01 dao tự chế, 01 đoạn gậy gỗ, 01 viên gạch đỏ, 01 gói chất bột màu trắng gói trong giấy bạc ký hiệu M.
Theo Bản kết luận giám định số 737/GĐKTHS ngày 07/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì ký hiệu M gửi giám định là ma tuý. Loại chất: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,015 gam.
Kết luận giám định số 148/21/TgT ngày 13/7/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Thái Bình kết luận tổn thương cơ thể đối với anh Phạm Ngọc T: Hiện các vết thương vùng đỉnh đầu, vùng gò má, vùng lưng hai bên không còn xưng nề bầm tím. Thương tích vùng cẳng tay phải do tác động vào vật sắc làm xước da, tụ máu vùng cẳng ta phải, làm biến đổi sắc tố da, kích thước (2x1,4)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 01%.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2021/HS-ST ngày 14-9-2021 của Toà án N dân huyện X1, đã quyết định:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm d khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Giữ người trái pháp luật”.
- Xử phạt Nguyễn Văn N 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/6/2021. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22-9-2021, bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Văn N giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày: Bị cáo con còn nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ đã bỏ đi mong Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát N dân tỉnh Nam Định kết luận về vụ án: Đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Giữ người trái pháp luật” là đúng người, đúng tội, không oan. Cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, N thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 20 tháng tù là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo tính răn đe giáo dục. Không có căn cứ để xem xét kháng cáo của bị cáo. Đề nghị áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 BLTTHS, giữ nguyên án sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về phần thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, Hội đồng xét xử nhận định: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập; qua quá trình tranh tụng tại phiên toà; Bản kết luận giám định; Lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ 50’ đến 16 giờ 30’ ngày 01-6-2021, Nguyễn Văn N đã có hành vi giữ anh Phạm Ngọc T trái pháp luật tại nhà của N.
Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, xét N thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cấp sơ thẩm đã xử phạt Nguyễn Văn N 20 tháng tù về tội “Giữ người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp lý, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo còn có hành vi đánh anh T gây tổn hại 1% sức khoẻ; khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra còn thu giữ tại nhà bị cáo 0,015 gam Heroine. Tuy không đủ căn cứ xác định trách nhiệm hình sự nhưng hành vi này của bị cáo cũng cần phải bị lên án.
Xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học để tu sửa bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.
[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm d khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố Nguyễn Văn N phạm tội “Giữ người trái pháp luật”.
- Xử phạt Nguyễn Văn N 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/6/2021.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
|
|
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!