Bản án số 08/2024/HS-ST ngày 10/04/2024 của TAND huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 08/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 08/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 08/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 08/2024/HS-ST ngày 10/04/2024 của TAND huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng |
|---|---|
| Tội danh: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Hạ Lang (TAND tỉnh Cao Bằng) |
| Số hiệu: | 08/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 10/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Trong hai ngày 30 và 31/12/2023, Trịnh Văn Ch lợi dụng lúc lán chăn nuôi gia cầm của gia đình anh Hoàng Văn Kh, tại khu vực LĐ, thuộc xóm BC, xã AL, huyện Hạ Lang không có người trông coi, Ch đã lấy trộm 06 (sáu) con gà trống thiến của gia đình anh Kh đem đi bán lấy tiền để mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân. Tổng giá trị 06 con gà trống thiến theo kết luận của Hội đồng định giá là 2.250.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Do đó có đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Ch về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HẠ LANG
TỈNH CAO BẰNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Bản án số: 08/2024/HS-ST
Ngày 10-4-2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ LANG, TỈNH CAO BẰNG
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Sầm Đức Hiệp.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Lục Văn Tiến
2. Bà Nông Thị Thuỷ
- Thư ký phiên tòa: Bà La Thị Hằng – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Hạ
Lang, tỉnh Cao Bằng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng
tham gia phiên tòa: Ông Đàm Quang Vũ - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Lang,
tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2024/TLST-
HS ngày 29/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
192/2024/QĐXXST-HS ngày 18/3/2024 đối với bị cáo:
- Trịnh Văn Ch, sinh ngày 26/7/1990, tại xã AL, huyện HL, tỉnh Cao
Bằng.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm BC, xã AL, huyện HL, tỉnh Cao
Bằng; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Nùng; giới
tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Xuân Đ (đã
chết) và bà Lương Thị Ph; vợ: Đàm Thị H (đã ly hôn năm 2018); con: Có 01 con
sinh năm 2012; Tiền án: Không;
Tiền sự: Ngày 30/10/2023, bị Công an huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng xử
phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.
Nhân thân:
- Ngày 29/5/2009, bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử
phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
- Ngày 07/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn là 24 tháng.
2
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2024 đến nay, hiện đang bị
tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đoàn Thị T - Trợ giúp viên pháp lý,
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
- Bị hại: Anh Hoàng Văn Kh, sinh năm 1974
Trú tại: Xóm BC, xã AL, huyện HL, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 02/01/2024, sau khi nhận tin báo của anh Hoàng
Văn Kh, trú tại xóm BC, xã AL, huyện HL về việc lán chăn nuôi của gia đình bị
mất trộm 06 (sáu) con gà thiến. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra xác minh,
thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, triệu tập Trịnh Văn Ch để làm việc. Tại Cơ
quan điều tra, Ch khai nhận: Do bản thân sử dụng ma túy nhưng không có tiền
nên Ch đã nảy sinh ý định trộm cắp gà của gia đình anh Kh. Cụ thể: Lần một,
khoảng 07 giờ ngày 30/12/2023, Ch đi vào lán chăn nuôi gia cầm của gia đình
anh Kh ở LĐ, xã AL, huyện HL, thấy không có ai trông coi nên đã bắt lấy 01
(một) con gà thiến, giấu vào áo khoác trong người, rồi đi bộ đến đập thuỷ điện
Thân Giáp sau đó đi nhờ xe của người qua đường đến xóm Cổ Phương, xã Đức
Hồng, huyện Trùng Khánh, tại đây Ch bán gà cho một người phụ nữ buôn gà
không rõ lai lịch được số tiền 270.000 đồng. Sau đó, Ch cùng hai nam thanh
niên không rõ lai lịch cùng nhau đến xã Trung Phúc, huyện Trùng Khánh mua
ma tuý để sử dụng. Lần hai, khoảng 18 giờ ngày 31/12/2023, Ch tiếp tục đến lán
chăn nuôi của gia đình anh Kh để trộm 05 con gà thiến, mỗi con nặng khoảng
2,5kg, sau khi bắt được gà, Ch giấu tất cả số gà vào một bao tải chuẩn bị sẵn, rồi
đi bộ đến đập thuỷ điện Thân Giáp chờ trời sáng. Sáng hôm sau, Ch đi nhờ xe
của người một đàn ông không quen biết đến xóm Cổ Phong, xã Đức Hồng,
huyện Trùng Khánh và bán gà cho một người đàn ông đi buôn gà, không quen
biết, không rõ lai lịch với giá 120.000 đồng/kg, cân bao tải gà được 12,5kg và
được tổng số tiền là 1.500.000 đồng. Số tiền thu được từ bán gà, Ch dùng để
mua ma tuý và tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 08/01/2024, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hạ
Lang kết luận: 06 con gà trống thiến tại thời điểm định giá ngày 30/12/2023 và
31/12/2023 có giá trị 2.250.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Quá
trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ số tiền 202.000đ (hai trăm
linh hai nghìn đồng) của Ch do bán gà trộm cắp mà có.
Tại bản Cáo trạng số 08/CT-VKSHL ngày 18/3/2024, Viện kiểm sát nhân
dân huyện Hạ Lang đã truy tố Trịnh Văn Ch về tội “Trộm cắp tài sản” theo
khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (BLHS).
3
Tại phiên tòa:
Bị cáo thừa nhận toàn bộ các hành vi đã thực hiện đúng như Cáo trạng
phản ánh và cho rằng việc truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng
người, đúng tội, không oan.
Người bị hại, anh Hoàng Văn Kh trình bày lời khai phù hợp về thời gian,
địa điểm, số lượng và đặc điểm số tài sản bị mất và anh Kh có đề nghị bị cáo
phải bồi thường thiệt hại số gà theo kết luận của Hội đồng định giá là 2.250.000đ
(hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo Trịnh Văn Ch về
tội trộm cắp tài sản. Bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản
1 Điều 51 và Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Trịnh Văn Ch từ 12 tháng đến 15
tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung công quỹ
Nhà nước số tiền 202.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có. Về trách nhiệm dân
sự: Buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho anh Kh với số tiền là 2.250.000
đồng. Bị cáo được miễn án phí.
Người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát truy
tố về tội danh, tình tiết giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo phạm
tội ít nghiêm trọng, gia đình thuộc hộ nghèo, trình độ nhận thức pháp luật còn
hạn chế, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở xã biên giới có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn, đề nghị xem xét giảm nhẹ mức hình phạt và miễn án
phí cho bị cáo.
Bị cáo nhất trí sẽ bồi thường thiệt hại cho gia đình anh Kh. Bị cáo không
có ý kiến bào chữa, không tranh luận với các quan điểm của đại diện Viện kiểm
sát và không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến
hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình
phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hạ
Lang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hạ Lang, Kiểm sát viên trong
quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành
vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành
vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện
đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và các yếu tố cấu thành tội phạm:
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với các lời khai
4
tại Cơ quan Điều tra, lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, đặc điểm tài sản
bị mất và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ, nên đủ cơ sở để Hội đồng
xét xử kết luận: Trong hai ngày 30 và 31/12/2023, Trịnh Văn Ch lợi dụng lúc
lán chăn nuôi gia cầm của gia đình anh Hoàng Văn Kh, tại khu vực LĐ, thuộc
xóm BC, xã AL, huyện Hạ Lang không có người trông coi, Ch đã lấy trộm 06
(sáu) con gà trống thiến của gia đình anh Kh đem đi bán lấy tiền để mua ma túy
sử dụng và tiêu xài cá nhân. Tổng giá trị 06 con gà trống thiến theo kết luận của
Hội đồng định giá là 2.250.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng). Do
đó có đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Ch về tội “Trộm
cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.
Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo lợi dụng sơ hở của chủ sở
hữu trong việc quản lý tài sản, có ý thức che giấu và thực hiện hành vi một cách
lén lút. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện một mình
với lỗi cố ý, đồng thời khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi,
năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, gây ra tình trạng mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người
khác được pháp luật bảo vệ. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Hạ Lang đã truy tố và đề nghị mức án đối với bị cáo Trịnh Văn Ch về tội
“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có
tình tiết tăng nặng. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo
tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, vào năm 2009, bị cáo bị Toà án
nhân dân thị xã Cao Bằng xử phạt 12 tháng về hành vi trộm cắp, đã được xoá án
tích; năm 2018, bị Toà án nhân dân huyện Hạ Lang áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn 24 tháng; năm 2023, có
01 tiền sự về tội trộm cắp tài sản, do đó bị coi là có nhân thân xấu; bị cáo phạm
tội không vì hoàn cảnh khó khăn, mà mục đích trộm cắp tài sản để thỏa mãn cho
việc sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân, nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi
đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành
người có ích cho xã hội, đồng thời đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm
chung. Quan điểm của người bào chữa đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt cho bị
cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét căn nhắc cho phù hợp.
[4]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại tài sản
cho anh Hoàng Văn Kh với số tiền 2.250.000 đồng.
[5]. Về vật chứng: Số tiền 202.000đ (hai trăm linh hai nghìn đồng) thu giữ
của bị cáo Ch là tiền do hành vi phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ
Nhà nước.
[6]. Đối với những người mà bị cáo Ch đi nhờ xe đến xóm Cổ Phương, xã Đức
5
Hồng, huyện Trùng Khánh để tìm nơi tiêu thụ gà và những người đã thu mua gà với
Ch do Ch không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh, làm rõ;
đối với những người cùng Ch đi mua ma tuý để sử dụng và người đã bán ma tuý cho
Ch do không rõ lai lịch cụ thể, không có căn cứ để xác minh, làm rõ nên Hội đồng xét
xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên được miễn án
phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và
Điều 38 BLHS;
Xử phạt Trịnh Văn Ch 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 02/01/2024.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 BLHS, các Điều
584, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Bị cáo Trịnh Văn Ch có trách nhiệm bồi thường số tiền 2.250.000đ (hai
triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) cho anh Hoàng Văn Kh, trú tại: Xóm BC,
xã AL, huyện HL, tỉnh Cao Bằng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại các Điều 357 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm b
khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 202.000đ (hai trăm linh hai
nghìn đồng) do phạm tội mà có của bị cáo Trịnh Văn Ch.
Xác nhận vật chứng nêu trên đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án
6
dân sự huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng.
5. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trịnh Văn Ch được miễn án phí.
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh;
- Sở tư pháp;
- VKSND tỉnh;
- VKSND huyện;
- Công an huyện;
- Chi cục THADS huyện;
- UBND xã nơi bị cáo cư trú
(bằng thông báo);
- Bị cáo;
- Người bào chữa;
- Lưu.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký và đóng dấu)
Sầm Đức Hiệp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm