Bản án số 07/2024/HS-ST ngày 30-01-2024 của TAND huyện Hương Sơn (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội vận chuyển hàng cấm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 07/2024/HS-ST ngày 30-01-2024 của TAND huyện Hương Sơn (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội vận chuyển hàng cấm
Tội danh: 191.Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hương Sơn (TAND tỉnh Hà Tĩnh)
Số hiệu: 07/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/01/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bùi Văn Q, Vũ Thanh T2 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HƯƠNG SƠN
TỈNH HÀ TĨNH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 07/2024/HS-ST
Ngày 30 - 01 - 2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Văn Đạt.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lương Văn Sơn; ông Lê Đình Phước.
Thư Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Thế Hồng, Thẩm tra viên
chính Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Tĩnh tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Tiến Phong - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân S, huyện H,
tỉnh Tĩnh xét xử thẩm công khai vụ án hình sthụ số: 71/2023/TLST-
HS ngày 21/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
07/2024/QĐXXST-HS ngày 16/01/2024, đối với các bị cáo:
1. Họ tên: Bùi Văn Q, sinh ngày 20/10/1979 tại C, huyện Q, tỉnh
Nghệ An; nơi trú: Bản V, C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; quốc
tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 05/12;
con ông Bùi Quang T (đã chết) Đoàn Thị T1, sinh năm 1953; vợ:
Nguyễn Thị N, sinh năm 1980 và 03 đứa con, lớn nhất 15 tuổi, nhỏ nhất 08 tuổi;
tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 05/10/2023 chuyển tạm giam từ
ngày 12/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H;
mặt.
2. Họ tên: Thanh T2, sinh ngày 17/3/1986 tại H, huyện H, tỉnh
Nghệ An; nơi cư trú: Xóm F, H, huyện H, tỉnh Nghệ An; dân tộc: Kinh; quốc
tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12;
con ông Thanh B, sinh năm 1955 Trần Thị T3, sinh năm 1955; vợ:
Phan Thị Thu H, sinh năm 1985 và 02 đứa con, lớn 12 tuổi, nhỏ 07 tuổi; tiền án,
tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 05/10/2023 chuyển tạm giam từ ngày
12/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn Q: Ông Văn Q1 - Trợ giúp viên
pháp lý, thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh H; vắng mặt
đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Cảnh Đ, sinh năm 1992;
địa chỉ: K, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Đức T4, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn K,
xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 05/10/2023, tại khu vực B Cửa khẩu quốc tế C
thuộc địa phận thôn H, S, huyện H, tỉnh Tĩnh, Đồn Biên phòng Cửa khẩu
quốc tế C phối hợp với các lực lượng chức năng tiến hành kiểm tra phương tiện
xe đầu kéo biển kiểm soát 37H-019.04, kéo Rơ moóc biển kiểm soát 37R-02683
do Thanh T2, sinh năm 1986, trú tại xóm F, xã H, huyện H, tỉnh Nghệ An
điều khiển lái phụ Bùi Văn Q, sinh năm 1979, trú tại bản V, C, huyện Q,
tỉnh Nghệ An nhập cảnh từ Lào về Việt Nam. Quá trình kiểm tra xe đầu kéo
biển kiểm soát 37H-019.04 phát hiện dưới giường trong Cabin 01 lọ nhựa
hình trụ cao 08cm, đường kính đáy 3,5cm, đầu hình chóp, bên ngoài in chữ
“Candy” màu hồng, bên trong chứa 34 viên nén màu hồng; dưới ghế lái
02 gói ni lông màu trắng bên trong đựng các vật hình tròn bằng nhựa, nhiều màu
sắc, mỗi vật đều có đường kính 2,7cm được gắn với một đoạn dây màu xanh dài
2,5cm; dưới bậc lên xuống cửa Cabin bên phụ 03 bịch ni lông màu trắng
được quấn bằng băng dính màu trắng, bên trong chứa 06 vật hình khối, kích
thước mỗi vật (14x14x10)cm, bên ngoài bọc giấy in hoa văn nhiều màu sắc
chữ nước ngoài; dưới bậc lên xuống cửa Cabin bên lái 02 bịch ni lông
màu đen được quấn băng dính màu trắng, bên trong chứa 03 vật hình khối, kích
thước mỗi vật (14x14x10)cm, bên ngoài bọc giấy in hoa văn nhiều màu sắc
chnước ngoài. Tiếp tục kiểm tra moóc biển kiểm soát 37R-026.83
phát thiện mâm xắc xi 03 bịch ni lông màu đen được quấn băng dính màu
trắng, bên trong có chứa 08 vật hình khối, kích thước mỗi vật (16x16x10)cm, và
01 vật hình khối, kích thước (14x14x10)cm, bên ngoài các vật đều bọc giấy
in hoa văn nhiều màu sắc chữ nước ngoài. Thanh T2 Bùi Văn Q khai
nhận 18 vật hình khối, bên ngoài mỗi vật đều bọc giấy in hoa văn nhiều màu
sắc, chữ nước ngoài và 02 gói ni lông bên trong chứa các vật hình tròn bằng
nhựa, nhiều màu sắc là pháo hoa nổ và pháo bi của T2Q mua ở nước Lào với
giá 4.000.000 kíp đưa về Việt Nam để sử dụng; còn 34 viên nén màu hồng T2
khai ma túy, loại Hồng phiến của T2 mua nước Lào với giá 200.000 kíp để
đưa về Việt Nam sử dụng riêng. Tiếp tục kiểm tra, lực lượng chức năng thu giữ
thêm sổ Hộ chiếu, thẻ Căn cước công dân và 02 chiếc điện thoại di động nhãn
hiệu Oppo của T2 Q. Xét thấy hành vi của Thanh T2 Bùi Văn Q vi
phạm pháp luật nên tổ công tác đã đưa các đối tượng cùng tang vật, phương tiện
về Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế C để lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.
- Tại bản kết luận giám định số 909/KL-KTHS ngày 07/10/2023 của Phòng
kỷ thuật hình sự Công an tỉnh H, kết luận: 34 viên nén màu hồng chứa trong 01
lọ nhựa hình trụ cao 08cm, đáy tròn, đường kính 3,5cm, đầu hình chóp, bên
ngoài in chữ “Candy” màu hồng gửi giám định ma túy, loại
Methamphetamine, khối lượng: 3,1747gam. (Methamphetamine là chất ma
túy nằm trong Danh mục II.B, STT 14, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày
25/8/2022 của Chính phủ).
- Tại bản kết luận giám định số 911/KL-KTHS ngày 09/10/2023 của Phòng
kỷ thuật hình sự Công an tỉnh H, kết luận:
+ 10 vật hình khối, kích thước mỗi vật (14x14x10)cm, bên ngoài bọc giấy
in hoa văn nhiều màu sắc, chữ nước ngoài gửi giám định pháo đầy đủ
tính năng của pháo nổ (có chứa thuốc pháo khi bị kích thích hoặc đốt gây
tiếng nổ), có khối lượng là 11,95kg;
+ 08 vật hình khối, kích thước mỗi vật, kích thước mỗi vật (16x16x10)cm,
bên ngoài bọc giấy in hoa văn nhiều màu sắc, chữ nước ngoài gửi giám định
pháo đầy đủ tính năng của pháo nổ (có chứa thuốc pháo khi bị kích nổ
hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là: 12,46kg;
+ Các vật hình tròn bằng nhựa, nhiều màu sắc, mỗi vật đều đường kính
2,7cm được gắn với một đoạn dây màu xanh dài 2,5cm đựng trong 02 gói ni
lông màu trắng gửi giám định là pháo nổ, có khối lượng là 0,66kg.
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Chiều ngày 03/10/2023, Thanh
T2 Bùi Văn Q điều khiển xe ô đầu kéo biển kiểm kiểm soát 37H-019.04
kéo theo moóc biển kiểm soát 37R - 026.83 của Công ty Cổ phần V, trụ
sở tại khối B, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nghệ An, để chở hàng nông sản, xuất
cảnh sang nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào qua Cửa khẩu quốc tế C1, tỉnh
Quảng Bình. Khi đến Lào, Q nói với T2 tìm mua pháo đưa về Việt Nam để sử
dụng thì T2 đồng ý. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, cả hai đến trạm thuế L
(nước Lào) ăn tối, sau khi ăn xong, Quyền ra xe nghỉ, còn T2 gặp một người đàn
ông người Lào, tên K cũng là lái xe đầu kéo nên T2 nhờ người này mua giúp 10
hộp pháo hoa lại 36 quả, 08 hộp pháo hoa loại 49 quả 02 bịch pháo bi. K
đồng ý, nói T2 điều khiển xe đi theo đến ngã ba T, Lào để lấy. Khi lên xe, T2
nói với Q đã liên hệ mua được pháo. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày
04/10/2023, khi đi qua ngã ba Thang Bèng khoảng 10km, K dừng xe trước một
lán nhỏ cạnh đường, thuộc bản ThôNaMy, Lào. T2 điều khiển xe dừng lại thì
thấy một người đàn ông đi xe chsẵn đưa cho 02 thùng cát tông đựng
pháo. T2 trả tiền cho K 4.000.000 kíp, tiền mua pháo rồi cùng với Q bỏ 02 thùng
cát tông lên Ca bin xe. Sau đó, Q điều khiển xe còn T2 mở hai thùng cát tông bỏ
các hộp pháp vào các túi ni lông màu đen, quấn băng dính bên ngoài. Khoảng 18
giờ ngày 04/10/2023, cả hai đến trả hàng tại thủ đô V, Lào. Đến 22 giờ ngày
04/10/2023, T2 điều khiển xe vhướng cửa khẩu quốc tế C. Đến khoảng 02 giờ
ngày 05/10/2023 khi đi qua dốc M, huyện P, Lào thì cả hai dừng xe đcất giấu
pháo tại các vị trí trên xe, cụ thể: Xắc xi phía sau moóc 08 hộp pháo hoa lại
49 quả 01 hộp pháo hoa loại 36 quả, bậc lên xuống của hai bên Ca bin 09
hộp pháo hoa loại 36 quả, còn 02 túi pháo bi để dưới ghế lái. Sau khi cất giấu
pháo xong, Q điều khiển xe một c rồi đổi lái cho T2 để ngủ. Khoảng 08 giờ
cùng ngày khi đi đến huyện V, tỉnh Bolikhamxay, Lào lúc này Q đang ngủ thì
T2 thấy một người đàn ông hành nghề lái xe tải, nhưng không rõ tên tuổi, địa chỉ
đang dừng xe bên đường nên T2 qua hỏi địa điểm bán Hồng phiến để mua
được người này hướng dẫn đến nhà của một người phụ nữ gần đó, đồng thời chủ
động cho T2 04 viên Hồng phiến, T2 để 04 viên Hồng phiến trên thùng đựng
nước trong Cabin xe. Tiếp đó, theo hướng dẫn của người này T2 đi đến một ngôi
nhà gặp một người phụ nữ người Lào, nhưng không tên tuổi địa chỉ cụ
thể, mua 01 gói Hồng phiến bên trong có 34 viên nén mùa hồng với giá 200.000
kíp Lào. Mua được H1 phiến, T2 bỏ vào một cái lọ nhựa rồi cất dấu ở dưới nệm,
trên giường tầng hai phía sau ghế lái rồi tiếp tục điều khiển xe. Đi được một lúc,
Quyền dậy tT2 nói 04 viên H1 phiến để trên thùng nước nên Q lại lấy sử
dụng hết (T2 không nói cho Q biết về việc đã mua 34 viên Hồng phiến). Sau đó,
T2 tiếp tục điều khiển xe đi về phía Cửa khẩu quốc tế C làm thủ tục nhập cảnh.
Quá trình kiểm tra lực lượng chức năng đã phát hiện, thu giữ 10 hộp pháo hoa
loại 36 quả, 08 hộp pháo hoa lại 49 quả, 02 bịch pháo bi 01 lọ nhựa đựng 34
viên Hồng phiến.
- Vật chứng thu giữ:
+ 01 xe đầu kéo biển kiểm soát 37H-019.04, nhãn hiệu CNHTC, màu bạc,
kéo theo moóc biển kiểm soát 37R-026.83, nhãn hiệu Xinhongdong, màu
xanh, trên Rơ moóc có thùng Container màu trắng ghi chữ “THINH LOC”;
+ 01 Giấy phép liên vận Việt Nam - Lào số 1758/2023 của phương tiện
37H-019.04 đã đóng dấu nhập cảnh Việt Nam ngày 05/10/2023;
+ 01 Giấy phép liên vận Việt Nam - Lào số 1757/2023 của phương tiện
37R-029.83 đã đóng dấu nhập cảnh Việt Nam ngày 05/10/2023.
Các vật chứng này Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
+ 25,07 kg pháo (đã lấy mẫu giám định 0,36kg), còn lại 24,71kg cùng toàn
bộ vỏ bao gói được đựng trong 01 thùng các tông kích thước (46x48x35)cm dán
kín, trên mép dán có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, Vũ Thanh T2
Bùi Văn Q;
+ 3,1747gam Methamphetamine ã lấy mẫu giám định 0,4683gam), còn
lại 2,7064gam cùng toàn bộ vỏ bao, lọ nhựa được bỏ trong 01 phong thư dán
kín, trên mép dán có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, Vũ Thanh T2
Bùi Văn Q;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu bạc, điện thoại đã qua sử
dụng (thu giữ của Vũ Thanh T2);
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu xanh, điện thoại đã qua sử
dụng, bên trong gắn thẻ sim số 0975.493.916 0836.651.783 (thu giữ của Bùi
Văn Q);
+ 01 căn cước công dân số 040086004332, mang tên Vũ Thanh T2, do Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 08/04/2021;
+ 01 hộ chiếu số P 02259872, mang tên Vũ Thanh T2, cấp ngày 21/6/2023;
+ 01 căn cước công dân số 040079003708, mang tên Bùi Văn Q do Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 10/4/2021;
+ 01 hộ chiếu số K0316293, mang tên Bùi Văn Q, cấp ngày 14/3/2022;
Các vật chứng trên đã được quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H
chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện H cất giữ để giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Tại cáo trạng số 03/CT-VKS-HS ngày 19/12/2023 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Tĩnh truy tố bị o Thanh T2 về tội
“Vận chuyển hàng cấm” theo điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ
luật Hình sự; bị cáo Bùi Văn Q về tội Vận chuyển hàng cấm”, theo quy định tại
điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố
các bị cáo theo như Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại
điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ
luật Hình sự xử phạt bị cáo Thanh T2 từ 30 đến 36 tháng tù, bcáo Bùi Văn
Q từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”; áp dụng điểm c khoản 1
Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo
Thanh T2 t24 đến 30 tháng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng
thời đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.
Trợ giúp viên pháp trong bản luận cứ bào chữa cho bị cáo Bùi Văn Q
không ý kiến về các quyết định tố tụng hành vi tố tụng, cũng như đồng
ý với tội danh truy tố bị cáo; chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình
tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình s
cũng như xem xét đến nhân thân, điều kiện hoàn cảnh của bị cáo Bùi Văn Q để
cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình
và xã hội; đồng thời đề nghị miễn án phí cho bị cáo Q.
Các bị cáo đã thừa nhận về hành vi phạm tội của mình của mình. Các bị
cáo không kêu oan không ý kiến tranh luận đối với đại diện Viện kiểm
sát, đồng thời thể hiện sự ăn năn, hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên sở nội dung ván, căn cứ vào các tài liệu trong hồ ván đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra, Điều tra viên,
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực
hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự. Quá trình điều tra, truy tố tại phiên tòa bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của
quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết
định tố tụng của quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của
mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai
của những người tham gia tố tụng khác các tài liệu, chứng cứ đã thu thập
trong hồ vụ án được xem xét ng khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ
sở xác định: Vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 05/10/2023, tại khu vực Barie
số 02, Cửa khẩu quốc tế C, thuộc địa phận thôn H, S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh,
Thanh T2 Bùi Văn Q đã bị Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế C phối hợp
với các lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang khi đang vận chuyển
25,07kg pháo, trong đó 24,41kg đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa
thuốc pháo khi bị kích thích hoặc đốt gây tiếng nổ) 0,66kg pháo nổ từ
nước Lào về Việt Nam để sử dụng; Riêng bcáo Thanh T2 còn bị phát hiện
bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 3,1747gam Methamphetamine
nhằm mục đích đ sử dụng. Với trọng lượng pháo các bị cáo vận chuyển
25,07kg và các bị cáo vận chuyển qua biên giới thì hành vi của các bị cáo đã đủ
yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm k khoản 2 Điều
191 Bộ luật Hình sự; còn với trọng lượng ma túy 3,1747gam Methamphetamine
bị cáo Thanh T2 tàng trữ thì hành vi của bcáo T2 đã đủ yêu cấu thành tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật
Hình sự. vậy, Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H,
tỉnh Hà Tĩnh truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bcáo
đều không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; sau khi phạm tội các bị
cáo đã thành khẩn khai báo, tại phiên tòa thhiện thái độ ăn năn, hối cải vể
hành vi phạm tội của mình, nên các bcáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ
quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo Thanh T2 cha đẻ ông Vũ Thanh B được Nhà nước tặng
Bằng khen đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời gian tại ngũ; cha vợ
ông Phan Đình B1 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng
Nhất, hạng Ba; Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì, Ba Huy chương
kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì; bị cáo đơn trình bày hoàn cảnh
gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận. Bị cáo Bùi Văn Q
đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn gia đình thuộc diện hộ nghèo.
Do đó, cả hai bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhquy định tại khoản 2
Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi vận chuyển pháo của cả hai bị cáo nguy hiểm cho hội,
xâm phạm đến trật tự quản kinh tế cụ thể xâm phạm chế độ độc quyền
của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh hàng cấm, ảnh hưởng đến tình
hình trật ttại địa phương, bị cáo Q người khởi xướng việc mua pháo về để
sử dụng nên đóng vai trò chính phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo
T2; còn hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo T2 là nguy hiểm cho xã
hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất
ma túy, xâm phạm trật tự an toàn hội và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của
đời sống. Do đó, cần phải mức án thật nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời
sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe phòng ngừa tội
phạm. Bị cáo Thanh T2 phạm 02 tội nên cần áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình
sự để tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung của hai tội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không nghề nghiệp ổn định, hoàn
cảnh gia đình khó khăn do vậy miễn nh phạt bổ sung bằng tiền, đbị cáo yên
tâm cải tạo, sớm hòa nhập với cộng đồng là phù hợp và có căn cứ.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với những vật chứng đã được quan điều tra trả lại cho chủ shu
hợp pháp; xét thấy việc trả lại hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật,
không ai ý kiến hoặc khiếu nại gì về việc trả lại này, do vậy Hội đồng xét xử
miễn xét.
Đối với 25,07 kg pháo ã lấy mẫu giám định 0,36kg), còn lại 24,71kg
cùng toàn bộ vỏ bao gói 3,1747gam Methamphetamine (đã lấy mẫu giám
định 0,4683gam), còn lại 2,7064gam cùng toàn bộ vỏ bao, lọ nhựa. t thấy
pháo ma túy là đối tượng Nhà nước cấm kinh doanh, lưu hành; còn toàn bộ
vỏ, bao gói, lvật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều
106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Đối với 01 Căn cước công dân, 01 Hội chếu, 01 điện thoại di động nhãn
hiệu Oppo thu giữ của Vũ Thanh T2 01 Căn cước công dân, 01 Hội chiếu, 01
điện thoại di động nhãn hiệu Oppo thu giữ của Bùi Văn Q không liên quan đến
hành vi phạm tội của bị cáo nên cần áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật
Tố tụng hình sự để trả lại cho bị cáo.
[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật áp dụng; tội
danh truy tố; mức hình phạt; xử lý vật chứng là có căn cứ nên được Hội đồng xét
xử chấp nhận; các quan điểm bào chữa cho bcáo Q của Trợ giúp viên pháp
về việc đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất sđược Hội đồng xét
xử xem xét trong quá trình lượng hình.
[8] Về các nội dung khác:
Đối với hai người đàn ông một người phụ nữ Lào bán pháo và ma túy
cho Thanh T2. Tuy nhiên, do T2 không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên
Cơ quan điều tra không có căn cứ để xem xét, xử lý.
Việc Thanh T2 mua tàng trữ ma túy thì Bùi Văn Q hoàn toàn không
biết, nên Q không liên quan đến hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy” của T2.
Đối với anh Cảnh Đ là chủ s hữu chiếc xe ô đầu kéo, biển kiểm soát
37H-019.04 moóc, biển kiểm soát 37R-026.83, anh Đ hoàn toàn không
biết việc các bị cáo mua pháo từ Lào cất dấu vào trong xe để đưa về Việt Nam
sử dụng, cũng như việc bị cáo Thanh T2 tàng trữ ma túy trên xe, do vậy
không có căn cứ để xem xét vai trò, trách nhiêm của anh Đ trong vụ án.
[9] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn Q thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án
phí còn bị cáo Thanh T2 phải nộp án phí hình sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật
Hình sđối với bị cáo Thanh T2 Bùi Văn Q về tội “Vận chuyển hàng
cấm”;
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật
Hình sự đối với bị cáo Vũ Thanh T2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
Điểm c khoản 1 Điều 47; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự; điểm
a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136,
Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1
Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Q phạm tội Vận chuyển hàng
cấm”; bcáo Thanh T2 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” tội “Tàng trữ
trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1 Xử phạt bị cáo Bùi Văn Q 36 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày
05/10/2023.
2.2 Xử phạt bị cáo Thanh T2 30 tháng về tội “Vận chuyển hàng
cấm”và 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo Thanh T2 phải chấp hành
hình phạt chung là 54 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/10/2023.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1 Tịch thu tiêu hủy 25,07kg pháo (đã lấy mẫu giám định 0,36gam), còn
lại 24,71gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói được đựng trong 01 thùng các tông kích
thước (46x48x35)cm dán kín, trên mép dán chữ của thành phần tham gia
niêm phong bị cáo Thanh T2, Bùi Văn Q; 3,1747gam Methamphetamine
ã lấy mẫu giám định 0,4638gam), còn lại 2,7064gam cùng toàn bộ vỏ bao, lọ
nhựa, được bỏ trong 01 phong thư dán kín, trên mép dán chữ ký của thành
phần tham gia niêm phong và bị cáo Vũ Thanh T2, Bùi Văn Q;
3.2 Trả lại cho Thanh T2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu
bạc; 01 Căn cước công dân số 040086004332, mang tên Thanh T2, do Cục
Cảnh sát quản hành chính về trật tự hội cấp ngày 08/4/2021; 01 Hộ chiếu
số P02259872, mang tên Vũ Thanh T2, cấp ngày 21/6/2023.
3.3 Trả lại cho Bùi Văn Q 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu
xanh, điện thoại đã qua sử dụng, bên trong gắn thẻ sim số 0975793961 và số
0836651783; 01 Căn cước công dân số 040079003708, mang tên Bùi Văn Q, do
Cục Cảnh sát quản hành chính về trật tự hội cấp ngày 10/4/2021; 01 Hộ
chiếu số K0316293, mang tên Bùi Văn Q, cấp ngày 13/4/2022.
(Tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao nhân vật chứng ngày 20/12/2023
giữa quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Hà Tĩnh Chi cục Thi
hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh).
4. Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo Bùi Văn Q; buộc bị cáo Vũ Thanh T2
phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo mặt quyền kháng cáo bản án sơ
thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan vắng mặt quyền kháng cáo bản án thẩm trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết.
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- Người có QL&NVLQ;
- Người bào chữa;
- VKSND huyện Hương Sơn;
- Công an huyện Hương Sơn;
- Trại tạm giam CA tỉnh Hà Tĩnh;
- Chi cục THADS huyện Hương Sơn;
- THA Hình sự;
- Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh;
- TAND tỉnh Hà Tĩnh;
- VKSND tỉnh Hà Tĩnh;
- Lưu: HSVA - VPTA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Mai Văn Đạt
Tải về
07_2024_HS-ST_HUONG_SON_HA_TINH.pdf 07_2024_HS-ST_HUONG_SON_HA_TINH.pdf

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

07_2024_HS-ST_HUONG_SON_HA_TINH.doc 07_2024_HS-ST_HUONG_SON_HA_TINH.doc

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất