Bản án số 06/2025/KDTM-PT ngày 20/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2025/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2025/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 06/2025/KDTM-PT ngày 20/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty... |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 06/2025/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/05/2025 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp giữa các thành viên công ty với công ty liên quan hoạt động của công ty |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 06/2025/KDTM-PT
Ngày 20/5/2025
Về“Tranh chấp giữa các thành viên
công ty với công ty liên quan hoạt
động của công ty”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
------------
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Đặng Kim Nhân
Các Thẩm phán: ông Phùng Anh Dũng, ông Trần Đức Kiên
- Thư ký phiên tòa: ông Trương Q Lập
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: bà Bùi Ngô Ý Nhi - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 20 tháng 5 năm 2025, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên
tòa công khai tại trụ sở để xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh tH1 mại thụ lý số
18/TBTL-TA ngày 03/3/2025 về “Tranh chấp giữa các thành viên công ty với
công ty liên quan hoạt động của công ty” đối với Bản án kinh doanh tH1 mại sơ
thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày 06/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nam bị kháng cáo, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1189/2025/QĐ-PT ngày
07/5/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữa:
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Thanh H1, sinh năm 1977; địa chỉ: tỉnh
Quảng Nam, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Ngọc H, sinh năm 1971; địa chỉ:
thành phố Đà Nẵng, có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm C, sinh năm 1959; địa
chỉ: thành phố Đà Nẵng, có mặt.
Bị đơn: Công ty cổ phần T1; địa chỉ trụ sở Công ty: tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo pháp luật là ông Kiều Anh Q - Giám đốc Công ty, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Kiều Anh Q, sinh năm 1978; địa chỉ cư trú: khối 3, thị Trấn N,
huyện N, tỉnh Quảng Nam, có mặt.
2. Ông Kiều Ngọc N; địa chỉ cư trú: tỉnh Quảng Nam, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
- Tại Đơn khởi kiện ngày 08/5/2023 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn bà Nguyễn Thị Thanh H1 trình bày:
Bà H1 là thành viên sáng lập Công ty cổ phần T1, với 120.000 cổ phần,
tương ứng 12.000.000.000 đồng, chiếm tỉ lệ vốn góp 44,44%. Trước đây, trong
quá trình giải quyết ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng năm 2018 giữa bà H1 với
ông Kiều Anh Q tại Tòa án nhân dân huyện N thì bà H1 có yêu cầu chia tài sản tại
Công ty cổ phần T1, nhưng Tòa án giải thích để khởi kiện ở một vụ án khác.
Ngày 03/9/2019, Công ty cổ phần T1 có Biên bản họp Đại hội đồng cổ
đông số 39/QĐ do ông Kiều Anh Q sở hữu 140.000 cổ phần, chiếm tỉ lệ 51,852%;
Chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty, làm Chủ tọa; các thành viên gồm
Tôi (Nguyễn Thị Thanh H1) Cổ đông sở hữu 120.000 cổ phần chiếm tỉ lệ
44,444% vốn điều lệ; ông Kiều Ngọc N, cổ đông sở hữu 10.000 cổ phần, chiếm tỉ
lệ 3,704% vốn điều lệ. Nội dung cuộc họp lấy ý kiến thống nhất giảm vốn điều lệ
từ 27.000.000.000 đồng xuống còn 13.500.000.000 đồng, hình thức giảm vốn
công ty hoàn trả một phần vốn góp cho cổ đông theo tỉ lệ sở hữu cổ phần của họ
trong công ty, cụ thể: ông Kiều Anh Q được hoàn trả 70.000 cổ phần trị giá
7.000.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Thanh H1 được hoàn trả 60.000 cổ phần trị
giá 6.000.000.000 đồng; ông Kiều Ngọc N được hoàn trả 5.000 cổ phần trị giá
500.000.000 đồng.
Cùng ngày, thay mặt đại hội đồng cổ đông Chủ tịch hội đồng quản trị - ông
Kiều Anh Q có quyết định số 79/QĐ ngày 03/9/2019; Quyết định giảm vốn điều
lệ từ 27.000.000.0000 đồng xuống còn 13.500.000.000 đồng, hình thức giảm vốn
Công ty hoàn trả một phần vốn góp cho Cổ đông theo tỉ lệ sở hữu cổ phần của họ
trong Công ty, theo đó bà H1 được hoàn trả 60.000 cổ phần trị giá 6.000.000.000
đồng. Cùng ngày 03/9/2019 ông Kiều Anh Q có Thông báo số 25/TB thay đổi nội
dung đăng ký doanh nghiệp gửi Phòng Đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch Đầu tư
tỉnh Quảng Nam và ngày 10/9/2019 Phòng Đăng ký kinh doanh có Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp Công ty cổ phần có mã số doanh nghiệp 4000489532
(Đăng ký lần đầu ngày 09/4/2008, đăng ký thay đổi lần thứ 6, ngày 10/9/2019) với
vốn điều lệ 13.500.000.000 đồng.
Từ đó đến nay, Công ty cổ phần T1, do ông Kiều Anh Q làm giám đốc
không hoàn trả tiền cho bà H1 nên nay bà H1 khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
Công ty cổ phần T1 do ông Kiều Anh Q làm Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc phải
trả lại tiền hoàn vốn 6.000.000.000 đồng, trả lãi vay mức 10% tính từ ngày đăng
ký lại giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (ngày 10/09/2019 đến nay), cụ thể
43 tháng x (6.000.000.000₫ x 10%) = 2.150.000.000đ.
* Bị đơn Công ty CP T1 trình bày:
Công ty Cổ phần T1 thành lập đăng ký hoạt động lần đầu vào năm 2005 với
vốn điều lệ lần đầu 5.000.000.000 đồng, chia thành 50.000 cổ phần phổ thông,
mệnh giá mỗi cổ phần là 100.000 đồng với 03 cổ đông sáng lập gồm Kiều Anh Q
sở hữu 25.000 cổ phần tổng giá trị 2.500.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị Thanh H1
sở hữu 15.000 cổ phần có tổng giá trị 1.500.000.000 đồng và ông Đỗ Quang
Tuyên sở hữu 10.000 cổ phần với tổng giá trị 1.000.000.000, toàn bộ vốn của
3
công ty là của vợ chồng ông Q và bà H1, ông Tuyên chỉ đứng tên hộ cho đủ 3
người chứ ông Tuyên không góp vốn. Ngày 17/3/2017, trước yêu cầu phải chứng
minh năng lực tài chính để các đối tác tin tưởng, ký được các hợp đồng giá trị lớn,
Công ty làm thủ tục trên giấy tờ (không góp thêm vốn) để tăng vốn điều lệ bằng
biện pháp phát hành thêm 220.000 cổ phần phổ thông, mệnh giá 100.000 đồng/1
cổ phần, bà H1 mua thêm 105.000 cổ phần, trị giá 10.500.000.000 đồng, ông Q
mua thêm 115.000 cổ phần, trị giá 11.500.000.000.
Ngày 16/7/2019 Cục Thuế tỉnh Quảng Nam thanh tra Công ty Gia Trường
phát hiện vốn điều lệ của Công ty trong các năm 2017, 2018 thiếu nên đã giảm chi
phí lãi vay Ngân hàng cho Công ty Gia Trường, Công ty bị truy thu thuế TNDN
sau khi loại bỏ lãi vay Ngân hàng năm 2017 số tiền 536.646.529 đồng, năm 2018
số tiền 689.947.427 đồng; tiền kê khai thuế sai mức phạt 20% số tiền
245.318.7910, tổng cộng 1.471.912.747 đồng. Trước tình hình này Công ty làm
thủ tục họp cổ đông ngày 03/9/2019 (thực chất không họp) lấy ý kiến thống nhất
giảm vốn điều lệ từ 27.000.000.000 đồng xuống còn 13.500.000.000 đồng, hình
thức giảm hoàn trả một phần vốn góp cho cổ đông, cụ thể: ông Kiều Anh Q được
hoàn trả 70.000 cổ phần trị giá 7.000.000.000 đồng, bà H1 được hoàn trả 60.000
cổ phần trị giá 6.000.000.000 đồng, ông Kiều Ngọc N được hoàn trả 5.000 cổ
phần trị giá 500.000.000 đồng. Hiện nay Công ty T1 đã thay đổi cổ đông, anh
Kiều Gia Trường là con ông Kiều Anh Q đã tham gia cổ đông thay bà H1 nên nay
và H1 khởi kiện yêu cầu Công ty hoàn trả bà H1 6 tỷ tiền hoàn vốn và lãi
252.000.000 đồng là không có cơ sở pháp lý.
Công ty thực hiện việc tăng vốn khống năm 2017 và giảm vốn năm 2019
là căn cứ theo Giấy ly thân và chia tài sản ngày 20/06/2014 với nội dung sau: “Tôi
(Bà H1) nhận đủ số tiền: 1.7000.000.000 đồng (bằng tiền mặt), Phần nợ ngân
hàng và tài sản Công ty Gia Trường ông Q chịu hoàn toàn với pháp luật, chứ
không liên quan gì đến tôi nữa... ông Q được quyền quyết định”
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Kiều Ngọc N trình bày:
Ông chỉ đứng tên giúp chứ không góp vốn vào Công ty, ông không biết ông
Đỗ Quang Tuyên chấm dứt tư cách cổ đông Công ty lúc nào và cũng không nhớ
ông tham gia với tư cách cổ đông Công ty thời gian nào. Không có việc họp và lập
Biên bản họp ngày 03/9/2019, chỉ làm giả biên bản, ông không có quyền lợi gì ở
Công ty T1.
* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (ông Phạm Ngọc Hùng) và
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp nguyên đơn (Luật sư Phạm Chiến) trình bày
luận cứ bảo vệ: Thời điểm ngày 21/3/2017 Công ty cổ phần Gia Trường được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có vốn điều lệ 27.000.000.000 đồng, trường
hợp các cổ đông không góp vốn đủ thì trong hạn 120 ngày Công ty phải đăng ký
giảm vốn, quá thời hạn thì ông Kiều Anh Q là người đại diện theo pháp luật của
công ty phải chịu trách nhiệm pháp lý về số vốn điều lệ của công ty đã đăng ký
trước đó. Mặt khác báo cáo tài chính năm 2018 của Công ty phản ảnh tài sản của
Công ty có vốn góp của chủ sở hữu 22.000.000.000 đồng nên ngày 03/9/2019
Công ty hoàn vốn góp cho các cổ đông là phù hợp thực tế, không phải trường hợp
4
làm thủ tục giảm số vốn khai khống như ông Q khai. Tại phiên toà ông Q khai
Công ty Gia trường đã thay đổi thành viên cổ đông theo đó ông Kiều Gia Trường
là con của ông Q tham gia cổ đông thay thế cho bà H1, nhưng không đưa ra chứng
cứ gì nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ án, năm 2019 tại thời điểm
họp cổ đông để giảm vốn và giấy đăng ký kinh doanh chỉ có bà H1, ông Q, ông N
không có ông Trường. Sau năm 2019 nếu ông Q tự ý thay đổi thành viên cổ đông
bà H1 sẽ kiện bằng vụ án khác.
Tại Bản án kinh doanh tH1 mại sơ thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày
06/8/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam quyết định:
Căn cứ khoản 4 Điều 30, Điều 37, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228
Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 36, Điều 111, Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm
2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Q Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Toà án, tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Thanh H1 về
“Tranh chấp với công ty liên quan đến hoạt động công ty”có nội dung yêu cầu
Công ty cổ phần T1 hoàn trả 6.000.000.000 (Sáu tỷ) đồng của 60.000 cổ phần và
2.150.000.000 (Hai tỷ một trăm năm mươi triệu) đồng tiền lãi của số tiền
6.000.000.000 (Sáu tỷ) đồng bà H1 chưa được nhận từ ngày 10/9/2019 đến nay.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị Thanh H1 phải chịu là 116.150.000 đồng, được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà bà H1 đã nộp 97.500.000 đồng theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000005 ngày 11/3/2021 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Nam, bà H1 còn phải nộp số tiền 18.650.000 đồng. Bị
đơn Công ty cổ phần T1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 16/8/2024, bà H1 kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H1
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện theo ủy quyền của bà H1 giữ nguyên kháng cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:
+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa phúc
thẩm hôm nay, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Hội đồng xét xử, Thư ký
Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự;
+ Về nội dung: đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; căn cứ việc hỏi và tranh
luận; căn cứ ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
[1] Bà H1 căn cứ Biên bản họp đại hội cổ đông ngày 03/9/2019, Quyết
định số 79/QĐ Đại hội cổ đông ngày 03/9/2019, Thông báo số 25/TB thay đổi nội
dung đăng ký doanh nghiệp gửi Phòng Đăng ký kinh doanh tỉnh Quảng Nam của
Công ty Cổ phần T1 (sau đây viết tắt là Công ty) có nội dung Công ty giảm vốn
điều lệ từ 27.000.000.000 đồng xuống 13.500.000.000 đồng, hình thức giảm vốn
là hoàn trả một phần vốn góp cho cổ đông, bà H1 được hoàn trả 60.000 cổ phần trị
giá 6.000.000.000 đồng, nhưng bà H1 chưa được nhận tiền nên bà H1 khởi kiện
yêu cầu Công ty trả 6 tỷ đồng và yêu cầu trả lãi từ ngày 10/9/2019 đến nay.
[2] Ông Q thì trình bày Công ty cổ phần T1 thành lập đăng ký hoạt động lần
đầu năm 2005 với vốn điều lệ 5.000.000.000 đồng, chia thành 50.000 cổ phần phổ
thông, mệnh giá mỗi cổ phần là 100.000 đồng, với 03 cổ đông sáng lập gồm ông
Q sở hữu 25.000 cổ phần trị giá 2.500.000.000 đồng, bà H1 sở hữu 15.000 cổ
phần, trị giá 1.500.000.000 đồng và ông Đỗ Quang T sở hữu 10.000 cổ phần, trị
giá 1.000.000.000, nhưng ông T chỉ đứng tên giúp cho đủ số lượng cổ đông Công
ty cổ phần T2 theo Luật là 3 người, còn toàn bộ vốn Công ty là của ông Q và bà
H1. Hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2014 nên ngày 20/6/2014 hai người
đã lập Văn bản thỏa thuận riêng, bà H1 ghi:“Tôi (H1) nhận đủ số tiền
1.7000.000.000 đồng (bằng tiền mặt), Phần nợ ngân hàng và tài sản Công ty T1
ông Q C hoàn toàn với pháp luật, chứ không liên quan gì đến tôi nữa... ông Q
được quyền quyết định”; như vậy, theo ông Q thì thực chất Công ty T1 của ông Q,
ông Q toàn quyền quyết định.
Ông Q trình bày để đối tác tin tưởng ký với Công ty các hợp đồng giá trị
lớn nên ngày 17/3/2017 ông Q làm làm thủ tục trên giấy tờ tăng vốn điều lệ với
hình thức phát hành thêm 220.000 cổ phần phổ thông, mệnh giá 100.000 đồng/1
cổ phần. Ngày 16/7/2019 Cục Thuế tỉnh Q thanh tra Công ty T1 phát hiện vốn
điều lệ của Công ty trong các năm 2017, 2018 nộp không đủ nên đã giảm chi phí
lãi vay Ngân hàng cho Công ty, truy thu thuế TNDN của Công ty sau khi loại bỏ
lãi vay Ngân hàng năm 2017 số tiền 536.646.529 đồng và năm 2018 số tiền
689.947.427 đồng; tiền kê khai thuế sai mức phạt 20% số tiền 245.318.7910, tổng
cộng 1.471.912.747 đồng. Trước tình hình này, ông Q làm không thủ tục họp cổ
đông ngày 03/9/2019 thống nhất giảm vốn điều lệ từ 27.000.000.000 đồng xuống
còn 13.500.000.000 đồng, hình thức giảm hoàn trả một phần vốn góp cho cổ
đông, cụ thể hoàn trả ông Q 70.000 cổ phần trị giá 7.000.000.000 đồng, hoàn trả
bà H1 60.000 cổ phần trị giá 6.000.000.000 đồng, hoàn trả ông Kiều Ngọc N
5.000 cổ phần trị giá 500.000.000 đồng. Vì các lý do trên, ông Q không đồng ý trả
tiền theo yêu cầu của bà H1.
[3] Xét thấy, bà H1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh bà H1 có
góp tiền hoặc tài sản vào Công ty để Công ty tăng vốn điều lệ ngày 03/9/2019
theo quy định bắt buộc tại Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tại phiên tòa sơ
thẩm, bà H1 cung cấp bảng kê danh sách 34 xe ô tô của Công ty vào năm 2021 và
cho rằng đó là tài sản của Công ty, nhưng không cung cấp được Giấy tờ đăng ký
chủ sở hữu 34 xe ô tô này. Tòa án cấp sơ thẩm đã ban hành quyết định yêu cầu
Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Q cung cấp Sổ đăng ký
6
cổ đông Công ty cổ phần T1, nhưng được trả lời không có tài liệu này mà chỉ
khẳng định: “Hiện nay theo quy định của pháp luật Công ty cổ phần P lập và lưu
giữ sổ đăng ký cổ đông từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”.
Ông Nguyễn H (nguyên kế toán của Công ty) xác nhận Công ty không có Sổ cổ
đông, không có Sổ góp vốn, sau khi họp đại hội cổ đông năm 2017 các cổ đông
không góp vốn đủ, năm 2018 vốn thực tế của Công ty là 17.910.000.000 đồng, đã
bao gồm 5.000.000.000 đồng vốn điều lệ ban đầu. Biên bản thanh tra của Đoàn
thanh tra thuộc Cục Thuế tỉnh Q và Quyết định về việc xử phạt vi phạm hành
chính của Cục Thuế tỉnh Q vào ngày 16/7/2019 kết luận Công ty cổ phần T1 thiếu
vốn điều lệ năm 2017, 2018 như đã đăng ký, phù hợp với Báo cáo tài chính năm
2017, năm 2018 Tòa án thu thập từ Cơ quan Thuế xác định vốn góp chủ sở hữu
các năm 2017, 2018 của Công ty T3 với 27 tỷ vốn điều lệ công ty đã đăng ký; phù
hợp với lời khai của ông Nguyễn H (kế toán Công ty) như trên; phù hợp lời khai
của ông Kiều Ngọc N (cổ đông của Công ty) khai ông chỉ đứng tên giúp chứ
không góp vốn vào Công ty, ông không biết ông Đỗ Quang T chấm dứt tư cách cổ
đông Công ty L và cũng không nhớ mình tham gia với tư cách cổ đông Công ty
thời gian nào, không có việc họp và lập Biên bản họp ngày 03/9/2019 mà chỉ là
làm giả biên bản, ông không có quyền lợi gì ở Công ty.
[4] Từ các mục trên, cấp phúc thẩm xét Tòa án cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà H1 là có căn cứ, đúng pháp luật nên không chấp
nhận kháng cáo của bà H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của
bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ
thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bà H1 kháng cáo không được chấp
nhận, phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên
Bản án kinh doanh tH1 mại sơ thẩm số 03/2024/KDTM-ST ngày 06/8/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Bà Nguyễn Thị Thanh H1 phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh tH1
mại phúc thẩm, trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu
số 0000176 ngày 27/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ giám đốc kiểm tra II-TANDTC;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam;
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam
(để thi hành);
- Lưu: Phòng lưu trữ; hồ sơ vụ án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
7
Đặng Kim Nhân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm