Bản án số 04/2025/HNGD-ST ngày 20/02/2025 của TAND huyện Thường Tín, TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2025/HNGD-ST

Tên Bản án: Bản án số 04/2025/HNGD-ST ngày 20/02/2025 của TAND huyện Thường Tín, TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thường Tín (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 04/2025/HNGD-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/02/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Nguyễn Thị N xin ly hôn anh Bùi Điện Ả do mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN T Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số: 04/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 20/02/2025
V/v tranh chấp: Ly hôn
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đoàn Lan Hương
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lương Văn Hùng và bà Đỗ Thị Kim Vân.
Thƣ ký phiên toà: Đặng Thị Thanh Huyền Thư Toà án nhân dân
huyện T, Thành phố Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn
Đức Toàn - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, Thành phố Nội
xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số
259/2024/TLST-HNGĐ ngày 08/10/2024 về tranh chấp "Ly hôn" theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 02/2025/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 01 năm 2025 giữa các đương
sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1989 (có mặt)
HKTT: Thôn T, T, huyện T, thành phố Nội. Chỗ ở: Thôn V, N, huyện T,
thành phố Hà Nội.
Bị đơn: Anh Bùi Điện Ả, sinh năm 1988 (có mặt)
HKTT và chỗ ở: Thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị
Nguyễn Thị N trình bày:
2
Chị N anh Bùi Điện kết hôn tnguyện đăng kết hôn tại UBND
T, huyện T, thành phố Nội ngày 01/3/2010. Sau khi tổ chức đám cưới theo phong
tục tập quán địa phương, chị N về chung sống với anh Ả tại thôn T, xã T, huyện T, TP
Nội. Vợ chồng chị chung sống bình thường đến năm 2019 thì bắt đầu mâu thuẫn
trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không
tiếng nói chung trong việc quản kinh tế gia đình nuôi dạy con cái, anh tính
phu nhiều lần đánh đập chị N trước mặt các con gây ảnh hưởng tâm nghiêm
trọng cho các con. Ngày 21/10/2024, anh đi uống rượu về, vợ chồng lời qua tiếng
lại, sau đó anh đánh chị N bầm tím mặt khiến chị N phải báo chính quyền thôn vào
giải quyết. Dù nhiều lần bị anh Ả hành hung nhưng vì con còn nhỏ nên chị N vẫn phải
sống cùng một mái nhà với anh để chăm sóc con, nhưng vợ chồng chị đã ly thân từ
tháng 7/2024, không còn sinh hoạt chung, không quan tâm chăm sóc nhau. Nay chị N
xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, hôn nhân
không thể kéo dài nên xin ly hôn anh Ả để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Chị N anh 03 con chung cháu Bùi Thị Thúy A, sinh
ngày 11/7/2011; cháu Bùi Tiến D, sinh ngày 23/12/2013 và cháu Bùi Tiến C, sinh ngày
17/5/2023. Ly hôn, chị N đề nghị được nuôi cháu A cháu C, không yêu cầu Tòa án
giải quyết việc cấp ỡng nuôi con sau khi ly hôn. Hiện tại chị N đang làm lao động
hợp đồng tại Công an huyện T, thu nhập bình quân khoảng 8 triệu đồng/1 tháng
kinh doanh bán hàng thêm, tổng thu nhập khoảng 15-17 triệu đồng/1 tháng. Chị N
được bố mẹ đẻ tạo điều kiện về chỗ ở ổn định và hỗ trợ chN chăm sóc con cái.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Bị đơn là anh Bùi Điện Ả trình bày:
Anh chị N kết hôn tự nguyện đăng kết hôn tại UBND T ngày
01/3/2010. Sau khi tổ chức đám cưới, vợ chồng anh chung sống tại thôn T, T. Quá
trình chung sống, vợ chồng xảy ra xích mích, xát. Tháng 7/2024 chị N nghe lời
thím dâu nghi ngờ tôi nghe điện thoại của người phụ nữ khác, sau đó tôi gặp
thím dâu để làm rõ sự việc thì xác định chỉ hiểu lầm nhưng chị N dựa vào lý do đó,
cho rằng anh có ý đuổi chị N ra khỏi nhà. Chị N đưa cháu C sang bên ngoại vài
3
ngày sau mới đưa con về, nhưng chị N thì thỉnh thoảng mới về nhà, vợ chồng sống ly
thân tđó đến nay. Chị N xin ly hôn, anh cũng xác định không còn khả năng hàn
gắn tình cảm, mâu thuẫn đã trầm trọng nên cũng muốn ly hôn để giải phóng cho cả hai
bên.
Về con chung: Anh chN 03 con chung cháu Bùi Thị Thúy A, sinh
ngày 11/7/2011; cháu i Tiến D, sinh ngày 23/12/2013 cháu Bùi Tiến C, sinh
ngày 17/5/2023. Anh đề nghị được nuôi cả ba con và không yêu cầu chị N đóng góp
tiền cấp dưỡng nuôi con. Anh làm lái xe Taxi 25 khu vực T, thu nhập nh quân 1
tháng khoảng 15-25 triệu đồng và có chỗ ở để nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh khẳng định v chồng không tài sản
chung và nợ chung. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh ủy quyền cho chị N là tài
sản riêng của anh, khoản vay của chị N nợ riêng của chị N nên không yêu cầu Tòa
án giải quyết về tài sản, công nợ.
Tại phiên toà:
Nguyên đơn giữ nguyên quan điểm yêu cầu xin ly hôn với anh Ả, đnghị được trực
tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Thị Thúy A, sinh ngày 11/7/2011 cháu Bùi Tiến C, sinh
ngày 17/5/2023 ; giao anh nuôi dưỡng cháu cháu Bùi Tiến D, sinh ngày 23/12/2013.
Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung,
nợ chung của vợ chồng.
Bị đơn đồng ý với quan điểm của nguyên đơn và không có ý kiến nào khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tham gia phiên tòa có quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Về quan hệ pháp luật và cách
đương sự: Tòa án xác định đúng đầy đủ; Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án
nhân dân huyện T thụ giải quyết đúng thẩm quyền; Về thời hạn giải quyết vụ
án: Tòa án giải quyết trong hạn luật định; Về thu thập chứng cứ đủ đúng theo quy
định của pháp luật; Tại phiên tòa Hội đồng xét xử theo đúng trình tự; Nguyên đơn, bị
đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung vụ án: Đề nghị hội đồng xét xchấp nhận đơn khởi kiện của chị
Nguyễn Thị N và xử cho chị N được ly hôn với anh Bùi Điện Ả. Về con chung: Giao
chị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu A cháu C ; giao anh trực tiếp nuôi dưỡng cháu
4
D. Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị N anh đến khi
yêu cầu hoặc sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung, công sức
đóng góp, nợ chung: Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý
kiến của các bên đương sự của Đại diện Viện Kiểm sát; Sau khi thảo luận nghị
án, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử xác định đây
là vụ án “Tranh chấp ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Nội theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
[2] Về quan hhôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Bùi Điện kết hôn trên
sở tự do tìm hiểu tự nguyện đăng kết hôn ngày 01/3/2010 tại UBND T,
huyện T, thành phố Nội. Như vậy, hôn nhân của anh chị N hợp pháp theo
luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Qua xác minh và các đương sự thừa nhận quá trình
chung sống vợ chồng chị N anh phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân từ
tháng 7/2024 đến nay, không quan tâm chăm sóc nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do
vợ chồng bất đồng quan điểm, khác biệt về lối sống và thiếu sự tin tưởng lẫn nhau nên
hôn nhân không hạnh phúc, thậm chí giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. Cả hai bên
đều xác định tình cảm không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên không thể hàn gắn tình
cảm, quay về đoàn tụ. Xét thấy, hôn nhân của chị N anh đã lâm vào tình trạng
trầm trọng, vợ chồng không sống chung với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được
nên yêu cầu xin ly hôn của chN là có cơ sở chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị N anh 03 con chung cháu i Thị Thúy A,
sinh ngày 11/7/2011; cháu Bùi Tiến D, sinh ngày 23/12/2013 và cháu Bùi Tiến C, sinh
ngày 17/5/2023. Xét thấy cả chị N anh đều điều kiện để nuôi con. Đối với
5
cháu C do chưa đủ 36 tháng tuổi, theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình,
giao chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp. Đối với cháu A
cháu D đều trên bảy tuổi, khi được hỏi ý kiến cháu A muốn với mẹ còn cháu D
muốn với bố, nhận thấy nguyện vọng của các cháu chính đáng, đủ sđể
chấp nhận. Mặt khác cháu A hiện nay đang ở độ tuổi phát triển về tâm sinh lý cần giáo
dục về giới tính nên giao cháu A cho chị N nuôi dưỡng và giao cháu D cho anh Ả trực
tiếp nuôi dưỡng phù hợp pháp luật, đảm bảo điều kiện chăm sóc tốt nhất cho các
cháu, việc cùng giới tính cũng phần nào giúp bố mẹ giáo dục tâm sinh lý cho các cháu
hiệu quả. Chị N anh không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi
con nên không xem xét. Chị N và anh quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung
không ai được cản trở.
[4] Về tài sản chung, công sức đóng góp và nợ chung: Các đương sự đề nghị tự
thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. Mặc dù anh đề nghị
chị N phải trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh , tuy nhiên trong
suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần lấy lời khai của anh về tài sản,
công nợ và yêu cầu anh cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh, nhưng anh
không xuất trình các tài liệu, chứng cứ, không yêu cầu Tòa án giải quyết vẫn giữ
nguyên quan điểm đnghị chị N phải thỏa thuận về tài sản, công nnên không
sở để xem xét trong vụ án này. Trường hợp các bên có yêu cầu và phát sinh tranh chấp
thì dành quyền khởi kiện cho các đương sự bằng một vụ án khác.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo theo quy định tại
các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
6
Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về quy định mức thu, miễn, giảm,thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị N. Chị
Nguyễn Thị N được ly hôn anh Bùi Điện Ả.
2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục cháu Bùi Th Thúy A, sinh ngày 11/7/2011 cháu Bùi Tiến C, sinh ngày
17/5/2023; giao anh Bùi Điện trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Bùi
Tiến D, sinh ngày 23/12/2013 đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc sự thay đổi
theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con
chung sau khi ly hôn cho chị N anh đến khi yêu cầu hoặc sự thay đổi theo
quy định của pháp luật. Chị N anh quyền đi lại thăm nom con chung
không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung, ng sức đóng góp nợ chung: Các đương sự đề nghị tự
thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. Trường hợp các bên
yêu cầu phát sinh tranh chấp thì dành quyền khởi kiện cho các đương sự bằng một
vụ án khác.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí
ly hôn thẩm; được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị N đã nộp theo
biên lai số 0016434 ngày 08/10/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành
phố Hà Nội. ChN đã nộp đủ tiền án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- Những người tham gia tố tụng;
- TAND Thành phố Hà Nội;
- VKSND Thành phố Hà Nội;
- VKSND huyện T, TP Hà Nội;
- Chi cục THADS huyện T;
- UBND xã T, huyện T Đoàn Lan Hƣơng
Thành phố Hà Nội;
- Lưu HS vụ án.
7
Tải về
Bản án số 04/2025/HNGD-ST Bản án số 04/2025/HNGD-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2025/HNGD-ST Bản án số 04/2025/HNGD-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất