Bản án số 03/2024/HNGĐ-ST ngày 02/05/2024 của TAND huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 03/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 03/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 03/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 03/2024/HNGĐ-ST ngày 02/05/2024 của TAND huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Na Rì (TAND tỉnh Bắc Kạn) |
Số hiệu: | 03/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/05/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Cho ly hôn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN NA RÌ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 03 /2024/HNGĐ-ST
Ngày: 02- 5 - 2024
V/v: Ly hôn, nuôi con chung.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NA RÌ, TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lý Thị Luân
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Hoàng Thị Thu Hà
Ông Trần Văn Sinh
-Thư ký phiên toà: Bà Tạ Huyền Trang - Thư ký Toà án nhân dân
huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn tham
gia phiên toà: Bà Triệu Kim Thúy - Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 05 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Na
Rì, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 82/2023/TLST-
HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2023 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 3 năm 2024 và quyết định
hoãn phiên tòa số 03/2024/QĐST - HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2024 giữa các
đương sự:
Nguyên đơn: Anh Đinh Văn T, sinh năm 1987 (vắng mặt có lý do).
Bị đơn: Chị Cao Thị N, sinh năm 1989,
Đều trú tại: thôn B, xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05 tháng 9 năm 2023, quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Đinh Văn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh T kết hôn với chị Cao Thị N vào năm 2012 trên
tinh thần tự nguyện, được gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương và có
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Sau khi kết
hôn vợ chồng sinh sống cùng bố mẹ chồng tại thôn B, xã L, huyện N. Cuộc sống
chung của vợ chồng sau khi kết hôn thời gia đầu hạnh phúc, đến năm 2019 chị N

đi làm công ty ở Bắc Ninh từ đó hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do chị N có
quan hệ bất chính với người đàn ông khác và ba năm trở lại đây vợ chồng đã
sống ly thân không quan tâm và không còn tình cảm với nhau.
Chị N không quan tâm đến chồng con, gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng
rạn nứt, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng; Chị N cố tình gây khó khăn,
chị N bỏ đi làm ăn xa, cố tình dấu không cho anh T biết địa chỉ cụ thể hiện nay
chị đang làm việc, sinh sống ở đâu. Chị N có liên lạc với mẹ chồng qua điện
thoại để gặp con tuy nhiên chị N không về thăm con. Đến nay anh T thấy tình
cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án cho anh T được ly hôn với chị N.
Về con chung: Anh T và chị N có 02 con chung là Đinh Bảo L, sinh ngày
16/3/2013 và Đinh Thu H, sinh ngày 03/5/2018, hiện nay hai con chung đang ở
với anh T. Ly hôn, anh T chịu trách nhiệm nuôi con chung và không yêu cầu chị
N đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, bị đơn chị Cao Thị N đã được Tòa án
tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông
báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng chị N vẫn không có mặt, cũng không gửi
văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của anh T cho Tòa
án. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn chị Cao Thị N tiếp tục vắng mặt
Tại phiên tòa:
- Nguyên đơn vắng mặt, trong đơn xin xét xử vắng măt anh T: Vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện.
Bị đơn: Vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Na Rì phát biểu quan điểm
về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa trong quá trình tố tụng, xây dựng hồ sơ và tại phiên tòa đã thực
hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp
luật của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án: Nguyên đơn đã
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 của
Bộ luật tố tụng dân sự; tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng
mặt; Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định
tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp
dụng Điều Điều 28; Điều 35; Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều
228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56,Điều 81, 82, 83 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho anh T được

ly hôn với chị N, về con chung đề nghị HĐXX giao cháu Đinh Bảo L và Đinh
Thu H cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ
18 tuổi, về vấn đề cấp dưỡng anh T không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản
chung nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung không có nên
không xem xét. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
nhận định:
1. Về tố tụng: Anh Đinh Văn T có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn chị
Cao Thị N và giải quyết việc nuôi con chung khi ly hôn, do vậy đây là vụ án
tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật
tố tụng dân sự. Bị đơn chị Cao Thị N có nơi cư trú tại thôn B, xã L, huyện N, tỉnh
Bắc Kạn, theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn.
Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Nguyên đơn có đơn xin xét xử
vắng mặt; Quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã được Tòa án đã tiến hành tống
đạt, niêm yết các văn bản tố tụng gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Giấy
triệu tập; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên
tòa hợp lệ. Tuy nhiên chị N cũng không về làm việc và chị N cũng không có ý
kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh
Đinh Văn T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến
hành hòa giải; Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ vào ngày 21/02/2024 theo quy định tại khoản 2 Điều 208 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa bị đơn vắng mặt. Xét thấy bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai
lần và sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn không thuộc trường hợp vì sự kiện
bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Na Rì
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn chị N là đúng theo quy định
tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Về quan hệ hôn nhân:
Anh Đinh Văn T và chị Cao Thị N kết hôn năm 2012 trên cơ sở tự nguyện,
có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn,
cuộc sống chung không có hạnh phúc do tính tình không hợp nhau, chị N đi
công ty không quan tâm đến chồng con, ngoài ra chị N còn có quan hệ bất chính
với người đàn ông khác.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ
án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng
chị N vẫn không có văn bản trình bày ý kiến, không đến Tòa án hòa giải với anh
T để vợ chồng quay về đoàn tụ, hàn gắn tình cảm với nhau.
Tại biên bản xác minh ngày 15/01/2024 mẹ đẻ chị N là bà Hà Thị H1 cho
biết: Chị N có đi làm công nhân tại Bắc Ninh từ năm 2022, thời gian đầu đi làm
công nhân chị N thi thoảng vẫn về thăm nhà và gọi điện liên lạc về nhà mẹ đẻ
khoảng thời gian tết âm lịch năm 2022 chị N còn về thăm mẹ đẻ, tháng 4 năm
2022 chị N có về thăm con ở xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn từ đó cho đến nay chị
N không về thăm bà H1, cũng không liên lạc về nhà. Nay bà H1 cũng chỉ biết
chị N hiện vẫn đang đi làm công nhân ở Bắc Ninh nhưng bà H1 không biết địa
chỉ chính xác của chị N, bà H1 không biết được tình trạng hôn nhân giữa chị N
và anh T vì cũng không nghe chị N kể gì, nay anh T có đơn xin ly hôn với chị N
bà H1 đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn cho chị N và anh T càng sớm càng tốt.
Tại biên bản xác minh ngày 15/01/2024 chị gái chị N là chị Cao Thị T1
cho biết: Hiện chị N làm công nhân tại Bắc Ninh tuy nhiên không biết địa chỉ
chính xác của chị N. Chị T1 cung cấp cho Tòa án số điện thoại 0329105880 để
liên lạc với chị N, khi Tòa án kết nối với số điện thoại này người dùng số điện
thoại đã liên hệ lại qua zalo bằng tin nhắn. Người dùng số điện thoại không trình
bày họ, tên, địa chỉ người này xác nhận là bạn cùng phòng trọ, cùng làm công ty
với chị Cao Thị N, tuy nhiên chị N đi làm ca ngày, hiện không có mặt tại phòng
trọ, người dùng số điện thoại này cam đoan sẽ thông báo về việc thụ lý vụ án số
89/TB-TLVA ngày 24/10/2023 và giấy triệu tập đương sự số 62/GTT-TA ngày
15/01/2024 cho chị N do Tòa án chụp ảnh gửi qua zalo cho người dùng số điện
thoại 0329105880 ( việc lập biên bản có mặt chị T1 và bà H1 chứng kiến).
Tại biên bản xác minh ngày 20/11/2023 ông Lương Văn T2 - trưởng thôn
thôn Bản G cho biết ông được bầu làm trưởng thôn từ tháng 9 năm 2022 qua
thông tin ông T2 nắm được trước khi đi làm công ty chị N anh T không có mâu
thuẫn gì. Khi chị N đi làm công ty vợ chồng mới xảy ra mâu thuẫn, chị N đi làm
không về nhà, không hỏi han, quan tâm gia đình con cái, hiện nay vợ chồng anh
T, chị N đã sống ly thân.
Tại biên bản xác minh ngày 20/11/2023 bà Hoàng Thị T3 ( là mẹ đẻ của
anh Đinh Văn T) cho biết: chị N và anh T kết hôn năm 2012. Được hai bên gia
đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương, sau khi kết hôn vợ chồng ra ở
riêng, quá trình chung sống bà T3 thấy hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn,
chỉ cãi nhau nhỏ như các gia đình khác. Từ năm 2019 chị N đi làm công nhân là
bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, lúc mới đi làm thi thoảng còn về đến năm
2021 là ít về nhà dần, chỉ gọi điện hỏi han con cái, từ năm 2022, 2023 thi thoảng
mới gọi điện về nhà, từ đó hai vợ chồng sống ly thân. Gia đình bà T3 có nghe

nói chị N có quan hệ tình cảm với người khác và có con riêng trong thời gian đi
làm công nhân, bà T3 có ý kiến chị N đã có quan hệ với người khác, trong thời
gian gần đây không quan tân hỏi han gì đến gia đình, con cái nên đề nghị cho
con trai bà là anh T được ly hôn với chị N càng sớm càng tốt.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cuộc hôn nhân giữa anh
T và chị N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc duy trì quan hệ hôn nhân như hiện
nay cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai vì thực tế anh T, chị N sinh sống
mỗi người một nơi, chị N không quan tâm chăm sóc cho chồng con, không có
trách nhiệm với cuộc sống hôn nhân của vợ chồng. Qua bạn cùng phòng trọ chị
N biết việc anh T xin ly hôn nhưng cũng không có ý kiến mong muốn hòa giải
để quay về đoàn tụ, cũng không làm văn bản trình bày ý kiến gửi cho Tòa án đối
với yêu cầu khởi kiện của anh T. Như vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của
anh T với chị N vì phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và
gia đình.
Về con chung: Anh T, chị N có 02 con chung Đinh Bảo L, sinh ngày
16/3/2013 và Đinh Thu H, sinh ngày 03/5/2018, hiện nay con chung đang ở với
anh T. Ly hôn, anh T có nguyện vọng được nuôi hai con chung và không yêu
cầu chị N đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Con chung có đơn trình bày nguyện vọng được ở với bố.
Xét đề nghị yêu cầu nuôi con của anh T là nguyện vọng chính đáng và phù
hợp với nguyện vọng của cháu Đinh Bảo L , để đảm bảo các điều kiện phát triển
bình thường của trẻ em, do các cháu còn nhỏ tâm sinh lý phát triển chưa hoàn
thiện. Hiện nay các cháu đang ở với anh T, chị N đi làm ăn xa, cố tình giấu địa
chỉ, không quan tâm chăm sóc cho chồng, con; Không có trách nhiệm với cuộc
sống hôn nhân của vợ chồng, để bảo đảm sự phát triển mọi mặt cho các cháu, vì
vậy cần giao cháu Đinh Bảo L và cháu Đinh Thu H cho anh T chăm sóc, nuôi
dưỡng là hoàn toàn phù hợp với Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài
sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Anh Đinh Văn T phải chịu tiền án phí ly hôn theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 2 Điều 208; Điều
227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản
1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1. Tuyên xử:
1.1 Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn, nuôi con chung của anh Đinh Văn
T đối với chị Cao Thị N.
1.2 Về quan hệ hôn nhân: Anh Đinh Văn T được ly hôn với chị Cao Thị N.
2. Về con chung: Giao con chung Đinh Bảo L, sinh ngày 16/3/2013 và Đinh
Thu H, sinh ngày 03/5/2018 cho anh Đinh Văn T được quyền trực tiếp trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh T không
đặt ra vấn đề đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử
không xem xét giải quyết.
Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử
không xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
5.Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, anh
Đinh Văn T phải chịu 300.000
đ
(ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng
được trừ vào số tiền 300.000
đ
tạm ứng án phí anh T đã nộp theo biên lai số
0000567, ngày 23/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Na Rì, tỉnh Bắc
Kạn.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; Bị đơn có quyền kháng cáo bản án
trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp
lệ./.
Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Các đương sự (02b); Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
VKSND huyện (02b);
TAND tỉnh (01b);
THA Dân sự huyện (01b);
UBND xã Lương Thượng (01b);
Lưu hồ sơ vụ án (01b);
Lưu TA (01b). Lý Thị Luân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm