Bản án số 02/2025/LĐ-PT ngày 12/05/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/LĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/LĐ-PT ngày 12/05/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về xử lý kỷ luật, sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 02/2025/LĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/05/2025 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông H yêu cầu Toà án xem xét giải quyết các yêu cầu sau |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số: 02/2025/LĐ-PT
Ngày: 12-5-2025
V/v: Tranh chấp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Minh Vỹ
- Các Thẩm phán: Ông Trịnh Hoàng Anh
Ông Cao Xuân Long
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Vũ Vân Thủy – Thư ký
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 05 và 12 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số
07/2024/TLPT-DS ngày 29 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động”.
Do Bản án lao động sơ thẩm số 04/2024/LĐ-ST ngày 22 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2025/QĐ-PT ngày 14 tháng 3
năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2025/QĐ-PT ngày 04 tháng 4 năm
2025 và Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 03/2025/QĐ-TA, ngày
05 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hứa Hồng H, sinh năm 1979
Địa chỉ: A T, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:
Bà Nguyễn Hồng Minh T, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Số H, tổ F, khu V, phường H, quận C, thành phố Cần Thơ, theo
Hợp đồng ủy quyền ngày 10-4-2023 (có mặt).
- Bị đơn: Công ty TNHH Y.
Địa chỉ: Tầng D, Tòa nhà V, số B đường L, Phường H, thành phố V, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Ngọc Thanh T1 – Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Đặng Thanh H1, sinh năm 1995.
Địa chỉ: 4 N, Phường I, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
2. Ông Lâm Thái S, sinh năm 1970 (có mặt).
3. Bà Võ Thị Tuyết H2, sinh năm 1974 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: P, lầu A Tòa nhà H, số C N, phường B, Quận A, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Theo Giấy ủy quyền ngày 26-11-2023.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bảo hiểm xã hội thành phố C (nay là Bảo hiểm xã hội khu vực III).
Địa chỉ: 1 N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt).
2. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố C (nay là Sở Nội vụ
thành phố C).
Địa chỉ: Số E đường L, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ (vắng mặt,
có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
3. Bảo hiểm xã hội tỉnh B (nay là Bảo hiểm xã hội khu vực XXVIII).
Địa chỉ: Số B đường B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Nguyệt T2, theo Giấy ủy quyền ngày
25-3-2024 (có mặt).
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Minh T3, sinh năm 1979.
Địa chỉ: số A đường D, KDC F Intresco, xã B, huyện B, thành phố Hồ Chí
Minh (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Hứa Hồng H – Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Hứa Hồng H và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn
là bà Nguyễn Hồng Minh T trình bày:
Ngày 12-7-2022, Công ty TNHH Y (sau đây gọi tắt là Công ty Y) có gửi
cho những người bị chấm dứt hợp đồng lao động Phương án sử dụng lao động
với nội dung, hình thức sắp xếp lại như sau: “Công ty chuyển nhượng toàn bộ
dự án của Công ty tại Đường số C khu công nghiệp P, phường P, thị xã P, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu cho Tập Đoàn T5 (TTA) và đại diện pháp nhân tại Việt Nam
là CÔNG TY TNHH B. Theo đó, Công ty thu hẹp hoạt động kinh doanh, cần
phải cơ cấu, tổ chức lại lao động….. Để thực hiện việc tái cấu trúc nêu trên,
Công ty (“Người sử dụng lao động”) thực hiện xây dựng phương án sử dụng lao
động phù hợp với quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động 2019 theo hướng bảo
đảm việc làm tối ưu cho người lao động (“Người lao động”) tại Công ty T6 điều
kiện cho phép.”.
Ngày 13-9-2022, Công ty Y ra Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số
01/20220913-1/Yara/QDTV đối với ông Hứa Hồng H để chấm dứt hợp đồng lao
động kể từ ngày 20-9-2022. Tuy nhiên, trong suốt quá trình đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động với ông H theo Điều 43 Bộ luật Lao động 2019, Công ty
sai phạm về quy trình và việc chấm dứt hợp đồng với ông H không đúng quy
định, do hiện tại vị trí công việc của ông H đã có người thay thế nên việc tinh
giản hay tái cấu trúc do vị trí công việc của ông H không còn trong cơ cấu tổ
chức là hoàn toàn không hợp lý.
Để giải quyết tranh chấp, ông H đã đề nghị Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội tỉnh B và Hoà giải viên lao động mở phiên họp giải quyết yêu cầu, đề
nghị. Ngày 06-6-2023, Hội đã tổ chức phiên họp hoà giải với sự có mặt của ông
H, đại diện Công ty Y và Hội đồng hoà giải, tuy nhiên kết quả hoà giải không
thành.
Việc Công ty Y đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông H đã có
nhiều sai phạm về quy định pháp luật và quy trình, do đó ông H yêu cầu Toà án
xem xét giải quyết các yêu cầu sau:
- Yêu cầu tuyên bố Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động số
01/20220913-1/Yara/QDTV ngày 13-9-2022 của Công ty Y đối với ông Hứa
Hồng H là trái quy định pháp luật.
- Yêu cầu Công ty Y thanh toán tiền lương: 40.913.343 đồng/tháng (đã tính
bảo hiểm xã hội) x 17 tháng (tạm tính từ 20-9-2022 đến ngày 28-02-2024) =
695.526.831 đồng và số tiền này được tiếp tục tính đến ngày Tòa án xét xử.
- Yêu cầu Công ty Y nhận lại sổ bảo hiểm từ ông H, đối chiếu sổ, thực hiện
nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chốt sổ bảo
hiểm xã hội từ tháng 9-2022 đến ngày Tòa án xét xử và trả sổ bảo hiểm xã hội
cho ông H theo quy định pháp luật.
- Bồi thường 06 tháng tiền lương: 40.913.343 đồng/tháng (đã tính bảo hiểm
xã hội) x 6 tháng = 245.480.058 đồng.
Đối với yêu cầu bồi thường tiền trợ cấp thôi việc, phía ông H xin rút yêu
cầu này.
Bị đơn Công ty Y và người đại diện hợp pháp của bị đơn là ông Đặng
Thanh H1 và bà Nguyễn Thanh T4 trình bày:
Công ty Y là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, có trụ sở chính tại thành
phố V. Trước đây, Công ty Y có 02 nơi hoạt động gồm: 01 nhà máy tại KCN Đ,
thành phố V, văn phòng điều hành, thực hiện hoạt động buôn bán phân bón tại
TP ..
Công ty Y và ông Hứa Hồng H có ký kết Hợp đồng lao động số
YHCM/922791 có hiệu lực từ ngày 05-01-2017; chức danh công việc là S1
(Giám sát bán hàng), loại hợp đồng là hợp đồng lao động không xác định thời
hạn. Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng lao động nêu trên, Công ty Y đã
luôn tuân thủ và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng lao động
theo quy định của hợp đồng lao động và quy định pháp luật.
Đầu năm 2022, Công ty Y thực hiện việc chuyển nhượng dự án nhà máy
sản xuất phân bón ở thành phố V cho Công ty TNHH B. Ngày 05-10-2022,
Công ty Y và Công ty TNHH B đã ký Hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư và
tài sản và đến ngày 24-11-2022, Ban quản lý các khu công nghiệp B đã chính
thức cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư từ Công ty Y sang Công ty TNHH
B.
Do Công ty Y thực hiện việc chuyển nhượng dự án nhà máy sản xuất phân
bón ở thành phố V nên quy mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn tới việc nhu cầu sử dụng
lao động của Công ty giảm xuống và phải cơ cấu, tổ chức lại lao động. Công ty
Y đã xây dựng phương án sử dụng lao động vì thay đổi cơ cấu tổ chức lại lao
động theo đúng quy định pháp luật. Trong đó, ông Hứa Hồng H thuộc trường
hợp chấm dứt hợp đồng lao động do thay đổi cơ cấu tổ chức lại lao động.
Căn cứ vào nhu cầu sử dụng lao động của Công ty Y, ngày 13-9-2022,
Công ty Y đã ban hành Quyết định số 01/20220913/Yara/QDTV chấm dứt Hợp
đồng lao động số YHCM/922791 với ông Hứa Hồng H kể từ ngày 20-9-2022.
Sau đó, Công ty Y đã tiến hành chi trả các khoản lương, trợ cấp cho ông
Hứa Hồng H với tổng số tiền 354.597.669 VND và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho
ông H đến tháng 09-2022.
Như vậy, việc Công ty Y chấm dứt hợp đồng lao động với ông Hứa Hồng
H là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật. Công ty Y cũng đã thực hiện
đúng, đầy đủ nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao
động với ông Hứa Hồng H.
Chính vì lẽ đó, Công ty Y hoàn toàn không đồng ý với các yêu cầu khởi
kiện của ông Hứa Hồng H. Công ty Y kính đề nghị Toà án nhân dân thành phố
V xem xét, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H.
Đối với ý kiến của ông T3 trình bày cho rằng, phía Công ty Y và người lao
động ký các văn bản thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động, phía Công ty đã
có hành vi không có tính nhân văn và không có tính chất của một cuộc thỏa
thuận, trong đó có sự ép buộc. Ý kiến này không đúng vì: Việc ký vào thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng lao động là sự tự nguyện của cả hai bên, không có
việc ép buộc để người lao động phải ký. Sau khi thỏa thuận chấm dứt, người lao
động cũng đã đồng ý nhận các khoản tiền trợ cấp theo sự thỏa thuận của cả hai
bên. Phía Công ty chỉ đưa ra các phương án để người lao động tự lựa chọn.
Trường hợp của ông H đã có tên trong danh sách nhân viên tinh giảm kèm theo
phương án sử dụng lao động. Việc ban hành phương án sử dụng lao động và
danh sách tinh giảm cũng đã được đưa ra thảo luận xem xét, có Chủ tịch công
đoàn tham gia.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội tỉnh B trình bày:
Công ty Y (mã đơn vị: YN0213Z) có tham gia Bảo hiểm xã hội tại Bảo
hiểm xã hội tỉnh B.
Ông Hứa Hồng H, sinh ngày 30-10-1979; Mã số BHXH: 7715010504,
tham gia BHXH từ:
- Tháng 07-2008 đến tháng 9-2008, tại Công ty Cổ phần T7 (tham gia
BHXH tại thành phố Cần Thơ).
- Tháng 01-2015 đến tháng 9-2022, tại Công ty TNHH Y.
Thời điểm có quyết định chấm dứt hợp đồng lao động: Ông Hứa Hồng H
tham gia bảo hiểm xã hội với mức lương 44.186.205 đồng (Trong đó quỹ
BHXH, BHYT, BHTNLĐ - BNN đóng với mức lương trần 29.800.000 đồng;
quỹ BHTN đóng với mức lương 44.186.205 đồng). Ngày 12-10-2022, Bảo hiểm
xã hội tỉnh đã chốt sổ cho ông H với thời gian từ 01-2015 đến 09-2022. Ông
Hứa Hồng H chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H, phía Bảo hiểm xã hội tỉnh B không
có ý kiến gì và không có yêu cầu gì trong vụ án, đề nghị Tòa án nhân dân thành
phố V giải quyết theo quy định pháp luật. Sau khi có bản án, quyết định của Tòa
án, phía Bảo hiểm xã hội tỉnh B sẽ giải quyết theo quy định.
Phía Bảo hiểm xã hội tỉnh B không có ý kiến đối với các tài liệu, chứng cứ
mà các đương sự cung cấp, không có ý kiến đối với phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội thành phố C trình
bày:
Ông Hứa Hồng H đã làm thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp và được Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố C ban hành Quyết định số 19635/QĐ-
SLĐTBXH ngày 01-12-2022 về việc hưởng trợ cấp thất nghiệp, với số tháng
được hưởng trợ cấp thất nghiệp là 07 tháng, mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng
là 23.400.000 đồng. Bảo hiểm xã hội thành phố C đã thực hiện chi trả trợ cấp
thất nghiệp với tổng số tiền 07 tháng bằng 163.800.000 đồng qua tài khoản cá
nhân của ông H, số tài khoản 0111000327725 tại Ngân hàng TMCP N.
Trường hợp Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 01/20220913-
1/Yara/QDTV ngày 13-9-2022 của Công ty Y là trái pháp luật, đề nghị Tòa án
nhân dân thành phố V thực hiện theo quy định của pháp luật. Đối với số tiền
hưởng trợ cấp thất nghiệp của ông H, khi có quyết định hủy hưởng trợ cấp thất
nghiệp của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố C, đề nghị ông H
nộp số tiền đã hưởng 163.800.000 đồng trực tiếp tại Bảo hiểm xã hội thành phố
C, số tài khoản 7411.000.142.6868 mở tại Ngân hàng TMCP Đ – Chi nhánh C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Sở L (nay là Sở N) thành phố Cần
Thơ trình bày:
Ông Hứa Hồng H đã được giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp theo Quyết
định số 19635/QĐ-SLĐTBXH ngày 01-12-2022 của Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội thành phố C. Việc thực hiện thủ tục hành chính giải quyết hưởng
trợ cấp thất nghiệp được thực hiện đúng quy định pháp luật hiện hành về bảo
hiểm thất nghiệp quy định tại Luật Việc làm; Nghị định 28/2015/NĐ-CP ngày
12-3-2015 của Chính phủ; Thông tư số 28/2015/TT-BLĐTBXH ngày 31-7-2015
của Bộ L1; Nghị định số 61/2020/NĐ-CP ngày 29-5-2020 của Chính phủ.
Việc chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp đối với ông H do Bảo hiểm xã hội
thành phố Cần Thơ thực hiện theo quy định pháp luật. Theo đó, Bảo hiểm xã hội
thành phố C đã thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp cho ông H với tổng số tiền
07 tháng bằng 163.800.000 đồng qua tài khoản cá nhân của ông H.
Khi có kết quả giải quyết của Tòa án, Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội thành phố C sẽ chỉ đạo Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố C rà soát, căn
cứ quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tham mưu Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội thành phố C xử lý hồ sơ giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp đối
với ông H. Vì vậy, đề nghị Tòa án thành phố V thông báo kết quả giải quyết vụ
án đến Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố C được biết.
Trường hợp quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 01/20220913-
1/Yara/QDTV ngày 13-9-2022 của Công ty Y là trái pháp luật, đề nghị Tòa án
Vũng Tàu yêu cầu ông H liên hệ Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố C để
được hướng dẫn chi tiết.
Đối với số tiền đã hưởng trợ cấp thất nghiệp của ông H khi có quyết định
hủy hưởng trợ cấp thất nghiệp của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành
phố C, đề nghị ông H nộp lại số tiền đã hưởng 163.800.000 đồng vào tài khoản
của Bảo hiểm xã hội thành phố C.
- Người làm chứng ông Nguyễn Minh T3 trình bày:
Trong quá trình Công ty Y thông qua phương án sử dụng lao động, ông T3
đã tham gia đóng góp ý kiến để hỗ trợ người lao động. Trước khi họp với tư
cách Chủ tịch Công đoàn, ông T3 đã họp với Lãnh đạo Công ty Y với tư cách là
Trưởng phòng kinh doanh, khi đó cùng với Lãnh đạo và các Trưởng phòng khác
họp để xem xét danh sách những người bị nghỉ việc do Công ty Y tái cấu trúc.
Thời điểm này danh sách không có ông Hứa Hồng H. Nhưng sau khi cuộc họp
kết thúc, trong email ông T3 nhận được từ Phòng Nhân sự có tên ông Hứa Hồng
H. Ông T3 không đồng ý vì với tư cách Trưởng phòng kinh doanh, ông Thông
hiểu rằng Hứa Hồng H là nhân sự có năng lực, có tiềm năng và được Công ty ký
kết đào tạo. Ông T3 có phản hồi với chị L là Trưởng phòng Nhân sự nhưng ông
chỉ nhận được tin nhắn đó là quyết định của Lãnh đạo. Đến ngày 12-7-2022, ông
T3 đại diện Công đoàn đã tham gia họp thống nhất phương án sử dụng lao động
với ban lãnh đạo Công ty Y – Lần 3 để thông qua phương án lao động. Ông T3
vẫn không thống nhất với danh sách nghỉ việc có ông Hứa Hồng H. Biên bản
họp ông T3 có ký tên là thông qua chính sách hỗ trợ cho những người bị nghỉ
việc, không có việc ký thông qua Danh sách nhân viên tinh giảm. Do đó, tại
trang “Danh sách nhân viên tinh giảm 2022” không có chữ ký của những người
tham dự cuộc họp ngày 12-7-2022 và chữ ký của ông T3 là người đại diện Công
đoàn.
Công ty C1 dẫn đến giải thể bộ phận công nhân tại Nhà máy nhưng không
ảnh hưởng đến khối văn phòng, khối sale và khối quản lý các khu vực. Nhưng
Công ty vẫn ra quyết định cho hàng loạt nhân viên sale và nhân viên văn phòng
nghỉ việc. Vị trí của Hứa Hồng H chỉ thay đổi tên trên hệ thống và có thêm 1 số
chức năng nhiệm vụ, hoàn toàn không như Công ty Y nói là vị trí không còn.
Sau khi Lãnh đạo Công ty Y chốt danh sách đã mời những người có trong
danh sách nghỉ việc để làm việc, mục đích là yêu cầu họ ký Thỏa thuận chấm
dứt Hợp đồng lao động. Theo ông T3 được biết mỗi người lao động đi vào họp
là một mình ngồi đối diện với Tổng Giám đốc, Trưởng phòng Nhân sự và 2
người khác. Quá trình làm việc là thông báo cho nghỉ việc với chế độ công ty đã
áp, nếu không đồng ý ký vào Biên bản thỏa thuận thì sẽ nhận Quyết định công ty
cho thôi việc. Ông T3 là người từng làm việc tại Mỹ, nhận thấy đây là hành vi
không có tính nhân văn và không có tính chất của một cuộc thỏa thuận, trong đó
có sự ép buộc nên khi được mời tham dự các cuộc họp thỏa thuận ông T3 đã từ
chối tham gia.
Bản chất đây là một cuộc đơn phương chấm dứt hợp đồng hàng loạt không
theo quy định pháp luật nhưng mang danh nghĩa thay đổi cơ cấu, vì công ty đưa
ra tiêu chí giữ lại và cho ra đi thì điều đó có nghĩa vị trí còn hoặc có thể bố trí
công việc mới nhưng lại xét các tiêu chí để người lao động bị thôi việc. Việc xét
tiêu chí cũng mang tính chủ quan của Lãnh đạo công ty, điển hình người vừa
được khen thưởng thành tích xuất sắc lại nằm trong danh sách ra đi.
Ông T3 xác định: Thủ tục để có phương án sử dụng lao động có thông qua
nhiều cuộc họp, có đủ các thành phần tham gia, trong đó có ông T3. Đối với
danh sách kèm theo phương án sử dụng lao động, thực tế có đưa ra trao đổi,
đánh giá từng người lao động nhưng đối với trường hợp của ông Hứa Hồng H
trước khi có tên trong danh sách cho nghỉ thì đã được đưa ra thảo luận, thống
nhất bằng miệng (có ghi lên bảng nhưng không lập biên bản và ký) là không có
trong danh sách nghỉ nhưng sau đó ông T3 được lãnh đạo công ty thông báo là
anh H có trong danh sách cho nghỉ, ông T3 cũng có ý kiến thắc mắc nhưng lãnh
đạo công ty nói đã chốt lại, không thay đổi. Đối với danh sách cho nghỉ kèm
theo phương án sử dụng lao động thì ông T3 không ký vào danh sách này.
Tại Bản án lao động sơ thẩm số 04/2024/LĐ-ST ngày 22 tháng 7 năm
2024, Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Hồng H đối với
Công ty TNHH Y.
Đình chỉ đối với yêu cầu của ông Hứa Hồng H về việc yêu cầu Công ty Y
bồi thường tiền trợ cấp thôi việc.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Yêu cầu kháng cáo:
Ngày 05-8-2024, ông Hứa Hồng H có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn (do bà Nguyễn Hồng Minh T đại diện) giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện và yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn (do ông Đặng Thanh H1 đại diện) không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện và yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên
quyết định của bản án sơ thẩm.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và
không bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ.
- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn nộp trong thời hạn luật định.
Những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo
quy định của pháp luật. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền,
nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ sở
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn nộp trong thời hạn luật định nên được
chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Hứa Hồng H vắng mặt
nhưng có người đại diện theo hợp pháp tham gia phiên tòa; những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2,
trong đó Sở Nội vụ thành phố C có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy,
Hội đồng xét xử căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự, xử vắng mặt các
đương sự trên.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Hứa Hồng H:
[2.1] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng lao động số YHCM/922791 có hiệu
lực từ ngày 05-01-2017:
Hợp đồng lao động số YHCM/922791 (BL126-128) được ký kết giữa
người sử dụng lao động là Công ty Y và người lao động là ông Hứa Hồng H,
bằng văn bản song ngữ, được người đại diện theo pháp luật của Công ty Y ký
tên, đóng dấu và ông Hứa Hồng H ký tên, tuân thủ đúng quy định tại các điều
13, 14, 15, 16, 17, 18, 19 và 20 Bộ luật Lao động năm 2019. Hợp đồng này được
hai bên thừa nhận là tự nguyện ký kết, có đầy đủ nội dung theo Điều 21 Bộ luật
Lao động năm 2019 và những nội dung này không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Do vậy, đây là hợp đồng lao động hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ cho các bên tham gia.
[2.2] Ngày 13-9-2022, Công ty Y ban hành Quyết định số 01/20220913-
1/Yara/QDTV (Bl 107) chấm dứt hợp đồng lao động với ông Hứa Hồng H, theo
Phương án sử dụng lao động đã được ban hành ngày 12-7-2022 (Bl 113-116).
Lý do Công ty này ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông H
là do: “Công ty chuyển nhượng toàn bộ dự án của Công ty tại Đường số C khu
công nghiệp P, Phường P, Thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho Tập Đoàn T5
(TTA) và đại diện pháp nhân tại Việt Nam là CÔNG TY TNHH B. Theo đó,
Công ty thu hẹp hoạt động kinh doanh,cần phải cơ cấu,tổ chức lại lao động…..
Để thực hiện việc Tái cấu trúc nêu trên, Công ty (“Người sử dụng lao động”)
thực hiện xây dựng phương án sử dụng lao động phù hợp với quy định tại Điều
43 Bộ luật lao động 2019 theo hướng bảo đảm việc làm tối ưu cho người lao
động (“Người lao động”) tại Công ty T6 điều kiện cho phép”. Tuy nhiên, phía
nguyên đơn cho rằng việc chấm dứt hợp đồng lao động nêu trên là trái pháp luật,
vì hiện tại vị trí công việc của ông H đã có người thay thế nên việc tinh giản hay
tái cấu trúc do vị trí công việc của ông H không còn trong cơ cấu tổ chức là hoàn
toàn không hợp lý. Do vậy, ông H yêu cầu Tòa án tuyên bố Quyết định chấm
dứt hợp đồng lao động nêu trên là trái pháp luật và buộc Công ty Y nhận lại sổ
bảo hiểm từ ông H, đối chiếu sổ, thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chốt sổ bảo hiểm xã hội từ tháng 9-2022 đến
ngày Tòa án xét xử và trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông H theo quy định pháp luật
và bồi thường 06 tháng tiền lương cho ông H. Xét yêu cầu nêu trên của nguyên
đơn thì thấy:
[2.2.1] Ngày 05-10-2022, Công ty Y và Công ty TNHH B đã ký Hợp đồng
chuyển nhượng dự án đầu tư và tài sản tại Đường số C, khu công nghiệp P,
phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Bl 141-147). Ngày 24-11-2022,
Ban quản lý các khu công nghiệp B đã chính thức cấp đổi Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư từ Công ty Y sang Công ty TNHH B.
Do Công ty Y thực hiện việc chuyển nhượng dự án nhà máy sản xuất phân
bón ở Đường số C, khu công nghiệp P, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu nên quy mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn tới việc nhu cầu sử dụng lao động của
Công ty giảm xuống và phải cơ cấu, tổ chức lại lao động nên Công ty Y đã xây
dựng Phương án sử dụng lao động. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại
Điều 43 Bộ luật Lao động năm 2019.
[2.2.2] Xét tính hợp pháp của Phương án sử dụng lao động ngày 12-7-2022
của Công ty Y:
Tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp (Bl 117-123) thể hiện quy trình và
thủ tục xây dựng Phương án sử dụng lao động ngày 12-7-2022 của Công ty
TNHH Y như sau:
Ngày 22-6-2022, ngày 29-6-2022 và ngày 12-7-2022, Công ty Y lập biên
bản họp lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba để lấy ý kiến về việc thống nhất Phương
án sử dụng lao động khi cơ cấu, tổ chức lại lao động của Công ty này. Thành
phần tham gia cuộc họp gồm Tổng Giám đốc, Giám đốc nhân sự, Giám đốc nhà
máy, Giám đốc tài chính, Chủ tịch Công đoàn, Phó chủ tịch Công đoàn, Trưởng
ban kiểm tra, Kế toán, Thành viên ủy ban kiểm tra Công đoàn. Sau ba lần họp,
ngày 12-7-2022, Công ty Y đã ban hành Phương án sử dụng lao động, với nội
dung: Tổng số lao động trước khi sắp xếp là 108 người; tổng số lao động tiếp tục
sử dụng là 45 người; số lao động không thể giải quyết việc làm mới và phải cho
thôi việc là 61 người; hết hợp đồng lao động 02 người. Với lý do thay đổi cơ cấu
tổ chức mới của tái cấu trúc không thể bố trí việc làm mới cho 61 người, trong
đó có vị trí Regional Sales M (Giám đốc kinh doanh vùng) của ông Hứa Hồng
H. Kèm theo Phương án sử dụng lao động có danh sách nhân viên tinh giảm
năm 2022, trong đó có ông H (Bl 112, 117). Phương án sử dụng lao động này đã
được Công ty Y thông báo công khai cho người lao động trong công ty (trong đó
có ông H) biết trong thời hạn luật định, theo văn bản ngày 13-7-2022 (Bl 110-
111). Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn xác nhận ông H đã nhận được Phương án sử dụng lao động trên.
Như vậy, Phương án sử dụng lao động nêu trên của Công ty Y đã được xây
dựng theo đúng quy định tại Điều 44 Bộ luật Lao động năm 2019 nên đảm bảo
tính hợp pháp.
[2.2.3] Xét tính hợp pháp của Quyết định chấm dứt hợp động lao động với
ông Hứa Hồng H :
Nguyên đơn cho rằng: Ngày 13-9-2022, Công ty Y ban hành Quyết định
01/20220913-1/Yara/QDTV chấm dứt Hợp đồng lao động với ông Hứa Hồng H
là không đúng quy định pháp luật. Bởi vì: Vị trí công việc của ông H đã có
người thay thế, việc tinh giản hay tái cấu trúc do vị trí ông H không còn trong cơ
cấu tổ chức là hoàn toàn không hợp lý.
Xét, do phải cơ cấu, tổ chức lại lao động theo Phương án sử dụng lao động
ngày 12-7-2022, nên vị trí “Giám đốc kinh doanh vùng” mà ông H đảm nhiệm
tại Công ty Y không còn, chỉ có vị trí “Giám đốc khu vực” và “Giám sát thương
mại – Kỹ thuật nông học”. Do vậy, ông H cho rằng vị trí của ông vẫn còn nhưng
bị người khác thay thế là không có sở. Công ty Y đã gửi Phương án sử dụng lao
động kèm danh sách người lao động bị tinh giản cho ông H. Do vậy, việc ban
hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông H được Công ty Y thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật. Cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên Quyết định chấm dứt hợp đồng lao
động với ông H là trái pháp luật là hoàn toàn có căn cứ.
[2.2.4] Do quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông H hợp pháp
nên không có căn cứ chấp nhận các yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn.
[2.2.5] Từ những căn cứ và phân tích như trên, Hội đồng xét xử thống nhất
không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H, chấp nhận đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí lao động sơ thẩm và phúc thẩm: Ông H được miễn nộp theo
điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều
228, Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 13, Điều 20, Điều 23, Điều 34, Điều
43, Điều 44 và Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019; điểm a khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hứa Hồng H
đối với bị đơn Công ty TNHH Y về việc:
- Yêu cầu tuyên bố Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động số
01/20220913-1/Yara/QDTV ngày 13-9-2022 của Công ty TNHH Y đối với ông
Hứa Hồng H là trái quy định pháp luật.
- Yêu cầu Công ty TNHH Y thanh toán tiền lương tính từ ngày 20-9-2022
đến ngày 20-7-2024 là 900.093.546 (chín trăm triệu, không trăm chín mươi ba
ngàn, năm trăm bốn mươi sáu) đồng.
- Yêu cầu Công ty TNHH Y nhận lại sổ bảo hiểm từ ông Hứa Hồng H, đối
chiếu sổ, thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, chốt sổ bảo hiểm xã hội từ tháng 9-2022 đến ngày Tòa án xét xử và trả
sổ bảo hiểm xã hội cho ông H theo quy định pháp luật.
- Yêu cầu Công ty TNHH Y bồi thường 06 tháng tiền lương là 245.480.058
(hai trăm bốn mươi lăm triệu, bốn trăm tám mươi ngàn, không trăm năm mươi
tám) đồng.
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hứa Hồng H về
việc yêu cầu Công ty TNHH Y bồi thường tiền trợ cấp thôi việc.
3. Về án phí lao động sơ thẩm: Ông Hứa Hồng H được miễn nộp.
4. Về án phí lao động phúc thẩm: Ông Hứa Hồng H được miễn nộp.
5. Bản án lao động phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
(12-5-2025).
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- TAND Tp. V, tỉnh BR-VT;
- VKSND Tp. V, tỉnh BR-VT;
- Chi cục THADS Tp. V, tỉnh BR-VT;
- Các đương sự;
- Lưu: TNV, TDS, Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Cao Minh Vỹ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm