Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp về cấp dưỡng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp về cấp dưỡng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về cấp dưỡng
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 02/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/02/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Thay đổi quyền nuôi cháu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Bản án số: 02/2024/DS-PT
Ngày: 26 tháng 02 năm 2025
V/v: Tranh chấp quyền nuôi cháu.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Đào Trọng Hải
Các Thẩm phán: Bà Lý Thị Lệ Thuỷ
Bà Nguyễn Thị Ngọc Anh
- Thư phiên tòa: Vương Thị Thùy Trang - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên
tòa: Bà Lê Thị Vẹn - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Rịa - Vũng
Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ số 14/2024/TLPT-
HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền nuôi cháu”.
Do Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 58/2024/HNGĐ-ST ngày 26/8/2024
của Tòa án nhân dân huyện Long Điền (nay là huyện L), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị
kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 21/2024/QĐ-PT ngày
12/12/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2024/QĐ-PT ngày 31/12/2024 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Ngô Văn T, sinh năm 1950 Trần Thị P, sinh năm
1956.
Địa chỉ: Tổ D, ấp T, B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (ông T, P
mặt)
* Người đại diện theo ủy quyền của ông Ngô Văn T Trần Thị P:
Nguyễn Thị Kim T1, sinh năm 1982.
Địa chỉ: 2, Đ, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (Có mặt)
(Theo Giấy ủy quyền ngày 17/5/2024 của bà Trần Thị P và ông Ngô Văn T).
- Bị đơn: Mai Thị L, sinh năm 1956.
Địa chỉ: Tổ A, ấp P, P, huyện L (nay là huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu.
(Vắng mặt)
* Người đại diện theo ủy quyền của Mai Thị L: Ông Nguyễn Viết M, sinh
năm 1987.
Địa chỉ: Ấp P, P, huyện L (nay huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu. (Có
mặt)
(Theo Giấy ủy quyền ngày 27/5/2024 của bà Mai Thị L).
Người làm chứng: Ông Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1993.
Địa chỉ: A đường Đ, Khu phố T, phường P, thị xã P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu.
(Có mặt)
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Ngô Văn T và bà Trần Thị P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng, tại phiên tòa nguyên đơn ông
Ngô Văn T, bà Trần Thị P và người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị Kim T1
trình bày:
Ông Ngô Văn T và bà Trần Thị P vợ chồng hợp pháp. Họ người con
chung ông NVăn V (sinh năm 1986, mất ngày 26/5/2020). Ông V kết hôn
hợp pháp với Nguyễn Thị Thủy D (sinh năm 1990, mất ngày 15/4/2021), và hai
vợ chồng ông V, bà T2 có năm người con chung, gồm:
1. Ngô Quốc B (sinh ngày 14/5/2013)
2. Ngô Ngọc Bảo T3 (sinh ngày 08/10/2014)
3. Ngô Thảo L1 (sinh ngày 21/02/2017)
4. Ngô Phúc L2 (sinh ngày 15/9/2018)
5. Ngô Ngọc Huệ L3 (sinh ngày 18/12/2020)
Hiện nay, bốn cháu L3, L1, T3 B đang sống cùng vợ chồng ông T, do
ông trực tiếp nuôi dưỡng, cháu L2 đang sinh sống cùng với gia đình ông
ngoại.
Về quá trình nuôi dưỡng các cháu:
Trước đây, bốn cháu lớn sống cùng cha mẹ tại tổ C (nay tổ D), ấp T, B,
huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cách nhà vợ chồng ông T khoảng 200m.
Ngày 26/5/2020, sau khi cha các cháu ông V qua đời do tai nạn, bốn cháu
lớn được ông T P đón về nuôi dưỡng (lúc này, cháu L3 vẫn còn trong bụng
mẹ).
Ngày 15/4/2021, mẹ các cháu D qua đời, cháu L3 được ông đưa về
chăm sóc cùng các anh chị.
Ngày 10/5/2021, được vợ chồng ông T đồng ý, ông ngoại của các cháu là ông
Nguyễn Văn L4 đến thăm và xin đưa ba cháu L2, L1T3 về chơi, hứa sẽ đưa các
cháu trở lại vào ngày giỗ cha (15/5/2021). Tuy nhiên, sau khi đón các cháu về, ông
L4 không đưa các cháu trở về dù vợ chồng ông T nhiều lần đến yêu cầu.
Ngày 24/7/2022, vợ chồng Nguyễn Thị Thùy D1 (con gái ông L4) đưa
cháu L1 về nhà ông T chơi. Cháu L1 xin ở lại một tuần và khi vợ chồng bà D1 đến
đón, cháu không chịu về. Từ đó, cháu L1 tiếp tục ở với ông T và bà P.
Về tình hình sinh sống của gia đình ông T:
Vợ chồng ông T sinh sống tại tổ C (nay là tổ D), ấp T, trên mảnh đất diện tích
2.247,8m² (trong đó 300m² đất thổ cư) thửa đất số 24, tờ bản đồ s46, thuộc
quyền sử dụng của ông theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 22/12/2021.
Những người đang sinh sống tại đây gồm: Vợ chồng ông T; Ông Ngô Văn T4
(sinh năm 1983, con ruột ông T, không có vợ con, bị nhiễm chất độc da cam nhưng
vẫn có khả năng lao động, thường phụ giúp chăn bò); Bà Ngô Thị Thu H (sinh năm
1992, con gái ông T) cùng chồng là ông Lê Phúc T5 (sinh năm 1992) và con chung
sinh năm 2020. Gia đình H sống trong căn nhà riêng cách nhà ông T 6m, cùng
trên mảnh đất số 24.
Về kinh tế và khả năng nuôi dưỡng các cháu:
Vợ chồng ông T có thu nhập ổn định từ hoạt động trồng trọt và chăn nuôi trên
thửa đất số 24, cụ thể:
- Trồng bơ và sầu riêng lời: 50.000.000 đồng/năm
- Trồng điều lời: 44.000.000 đồng/năm
- Nuôi gà lời: 30.000.000 đồng/năm
- Nuôi bò lời: 60.000.000 đồng/năm
Ngoài ra, ông T còn nhận trợ cấp thương binh 1.345.000 đồng/tháng và trợ cấp
chất độc da cam 2.062.000 đồng/tháng.
Vợ chồng ông T khẳng định đủ điều kiện về kinh tế, thời gian sức khỏe
để chăm sóc, nuôi dưỡng cả năm cháu. Họ cũng nhận được sự hỗ trợ từ ông T4
vợ chồng bà H trong việc chăm sóc các cháu.
Về việc tranh chấp quyền nuôi dưỡng các cháu giữa hai gia đình nội ngoại:
Trước đây, do mâu thuẫn trong việc phân chia trách nhiệm nuôi dưỡng, vợ
chồng ông T đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Long Điền (nay huyện L).
Kết quả xét xthẩm Toà án giao ba cháu cho ông T, còn hai cháu cho ông L4
L. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút đơn kiện. Sau đó, các
bên tự thỏa thuận (không có văn bản) về việc nuôi dưỡng các cháu như sau:
- Ba cháu L3, L1B ở với ông T và bà P.
- Hai cháu T3 L2 ở với ông L4 và bà L.
Trước Tết Âm lịch 2023, cháu T3 về thăm ông T và P rồi quyết định lại
cùng với ba anh chị em L3, B, L1, được ông chăm sóc từ đó đến nay. Hiện
nay, do ông L4 đã qua đời, cháu L2 đang cùng L. Nay L cũng đã yếu
không trực tiếp nuôi dưỡng và dạy dỗ cho cháu L2 được nên vợ chồng ông T, bà P
tiếp tục khởi kiện, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả năm cháu, gồm:
1. Ngô Quốc B (sinh ngày 14/5/2013)
2. Ngô Ngọc Bảo T3 (sinh ngày 08/10/2014)
3. Ngô Thảo L1 (sinh ngày 21/02/2017)
4. Ngô Phúc L2 (sinh ngày 15/9/2018)
5. Ngô Ngọc Huệ L3 (sinh ngày 18/12/2020)
Về vấn đề cấp dưỡng, ông T P không yêu cầu L cấp dưỡng cho các
cháu.
* Trong quá trình tố và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
ông Nguyễn Viết M trình bày:
Ông Nguyễn Văn L4 và bà Mai Thị L vợ chồng hợp pháp, ba người con
chung gồm:
- Nguyễn Thị Thùy D1 (sinh năm 1983)
- Nguyễn Viết M (sinh năm 1987)
- Nguyễn Thị Thủy D (sinh năm 1990, đã mất)
Ông Ngô Văn V ã mất) con rể của vợ chồng ông L4, chồng của
Nguyễn Thị Thủy D. Vợ chồng ông V và bà Thủy D năm người con chung:
1. Ngô Quốc B (sinh ngày 14/5/2013)
2. Ngô Ngọc Bảo T3 (sinh ngày 08/10/2014)
3. Ngô Thảo L1 (sinh ngày 21/02/2017)
4. Ngô Phúc L2 (sinh ngày 15/9/2018)
5. Ngô Ngọc Huệ L3 (sinh ngày 18/12/2020)
Hiện nay, ông L4, ông ông V và Thủy D đều đã mất. Trong số năm cháu
trên, cháu L2 đang sống cùng bà L tại nhà riêng ở tổ C, ấp P, xã T, huyện L (nay là
huyện L), tỉnh Rịa - Vũng Tàu. Cháu L2 phát triển bình thường cả về thể chất
và tinh thần.
Ngoài L, người đang sinh sống cùng tại căn nhà này còn con traiL -
ông Nguyễn Viết M. Ông M sức khỏe tốt, chưa lập gia đình, thường xuyên
phụ giúp bà L chăm sóc cháu L2. Hiện nay, cháu L2 đang theo học tại Trường M3
(ấp L, P, huyện L (nay huyện L)). Việc đưa đón cháu đi học do L ông
M thay phiên đảm nhiệm, toàn bộ chi phí ăn học do bà L chi trả.
Về quá trình thay đổi nơi ở của các cháu:
Sau khi cha mẹ qua đời, cả năm cháu ban đầu đều sống với ông nội ông
Ngô Văn T Trần Thị P. Tuy nhiên, khi Tòa án nhân dân tỉnh Rịa - Vũng
Tàu đình chỉ bản án phúc thẩm, các bên đã thỏa thuận (không lập văn bản) về việc
hai cháu L2 T3 chuyển về ở với ông L4 và bà L.
Từ khi cháu L2 và T3 vnhà ngoại, P nhiều lần đến nhà ông L4 yêu cầu
đưa các cháu vnhà nội nng không được đồng ý. Tuy nhiên, ngày 29/12/2023
(Âm lịch), cháu T3 được ông T P xin phép đưa về thăm chơi cùng các anh
chị em. Sau đó, cháu T3 không trở lại nhà M1 lại với ông T P đến
nay.
Về điều kiện kinh tế của L:
Gia đình L sản xuất kinh doanh bán nước mắm theo hình thức hộ kinh
doanh từ năm 1997 đến nay. sở này trước đây do vợ chồng L ông L4
cùng điều hành tại tổ C, ấp P, xã T, huyện L (nay là huyện L). Sau khi ông L4 mất,
L tiếp tục duy trì việc kinh doanh, đồng thời trực tiếp nuôi dưỡng cháu L2. Ông
M, con trai L, cũng sinh sống tại đây hỗ trợ mẹ trong công việc cũng n
chăm sóc cháu L2.
Về tranh chấp quyền nuôi dưỡng các cháu:
Theo yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn TTrần Thị P về việc xin trực
tiếp nuôi dưỡng cả năm cháu, bà L không đồng ý. Bà L đề nghị được trực tiếp nuôi
dưỡng cả năm cháu Ngô Quốc B (sinh ngày 14/5/2013); Ngô Ngọc Bảo T3 (sinh
ngày 08/10/2014); Ngô Thảo L1 (sinh ngày 21/02/2017); Ngô Phúc L2 (sinh ngày
15/9/2018); Ngô Ngọc Huệ L3 (sinh ngày 18/12/2020). Về cấp dưỡng: K
yêu cầu ông T và bà P cấp dưỡng cho các cháu.
- Tại Bản án dân sự thẩm số 58/2024/HNGĐ-ST ngày 26/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Long Điền (nay là huyện L) đã quyết định như sau:
1. Căn cứ vào khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39, 47, 48. 49, 52 khoản 2 Điều 228 Bluật Ttụng dân sự; các Điều 104
105 Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. 1 Tuyên xử:
1.1.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn T và Trần
Thị P;
Ông Ngô Văn T Trần Thị P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng chăm
sóc, giáo dục 4 cháu là Ngô Quốc B, sinh ngày 14/5/2013; Ngô Thảo L1, sinh ngày
21/02/2017; Ngô Ngọc Bảo T3, sinh ngày 08/10/2014; Ngô Ngọc Huệ L3, sinh
ngày 18/12/2020 cho đến khi các cháu trưởng thành (đủ 18 tuổi).
1.1.2 Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Mai Thị L;
Mai Thị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cháu Ngô
Phúc L2, sinh ngày 15/9/2018 cho đến khi các cháu trưởng thành (đủ 18 tuổi).
1.2 Ông Ngô Văn T, Trần Thị P, Mai Thị L được quyền thăm nom,
chăm sóc, giáo dục cháu chung, không ai được quyền ngăn cản.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 09/9/2024 nguyên đơn ông Ngô Văn T, Trần
Thị P đơn kháng cáo với nội dung đnghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án
hôn nhân gia đình sơ thẩm số 58/2024/HNGĐ-ST ngày 26/8/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Long Điền (nay là huyện L) theo hướng chấp nhận cho ông Ngô Văn T,
Trần Thị P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 05 cháu Ngô Quốc B, sinh ngày
14/5/2013; Ngô Ngọc Bảo T3, sinh ngày 08/10/2014; N Thảo L1, sinh ngày
21/02/2017; Ngô Phúc L2, sinh ngày 15/9/2018; Ngô Ngọc Huệ L3, sinh ngày
18/12/2020. Tuyên hủy phần bản án “Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của
Mai Thị L; Mai Thị L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục
cháu Ngô Phúc L2, sinh ngày 15/9/2018”
Quá trình xét xử phúc thẩm:
Trong thời gian kháng cáo chờ xét xử phúc thẩm, nguyên đơn bổ sung chng
cứ về tình trạng sức khỏe của L hiện nay bệnh nằm một chỗ, đi lại khó khăn
phải cần người chăm c nên không thể đảm bảo việc trực tiếp nuôi cháu L2.
Nguyên đơn cung cấp thêm i liệu hiện nay cháu L2 không còn do ông Nguyễn
Văn M2 nuôi dưỡng đã giao cho ông Nguyễn Xuân Đ trực tiếp nuôi dưỡng
chăm sóc tại thành phố P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng
cứ gì mới và không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Nguyên đơn và đại diện nguyên đơn trình bày tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo của
mình.
* Đại diện bị đơn trình bày tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án hôn nhân gia
đình sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
* Người làm chứng ông Nguyễn Xuân Đ trình bày:
Ông Đ con ruột của bà Mai Thị Lê . Hiện tại, cháu Ngô Phúc L2 đang sống
cùng gia đình ông Đ tại P, gồm vợ ông là Bùi Ngọc D2 con ruột của ông (bé
5 tuổi). Cháu L2 đang theo học tại Trường Tiểu học M4.
do K trực tiếp nuôi dưỡng cháu L2 điều kiện học tập phát
triển của cháu tại P thuận lợi hơn so với Long Đ1. Đồng thời, ông Đ thchăm
sóc đưa đón cháu thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, C phải quản xưởng sản
xuất nước mắm, công việc bận rộn nên không thể trực tiếp nuôi dưỡng cháu.
Trước việc ông TP khởi kiện, gia đình bà C1 các con không đồng ý,
c cháu đều là cháu chung của cả hai bên nội ngoại. Do đó, ông T P
không thể đơn phương giành quyền nuôi các cháu. Hơn nữa, ông T P đều đã
trên 70 tuổi, làm nghề nông, nên việc chăm sóc các cháu chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ
của con cái.
Nay, nếu Tòa án quyết định giao cả năm cháu cho gia đình ông Đ nuôi dưỡng,
gia đình ông sẵn sàng nhận nuôi. Trường hợp Tòa án không thể giao cả năm cháu,
gia đình ông Đ đề nghị được tiếp tục chăm sóc cháu L2, trong khi bốn cháu B, T3,
L1L3 vẫn ở với ông T và bà P, như phán quyết sơ thẩm của Tòa án huyện Long
Điền (nay là huyện L).
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến:
+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ
khi thụ lý, Thẩm phán đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử phúc
thẩm, Thư phiên tòa tiến hành công khai, đúng trình tthủ tục ttụng. Trong
quá trình thụ giải quyết cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự những
người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về giải quyết vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
tuyên xử không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn T, Trần Thị P, giữ
nguyên bản án thẩm số 58/2024/HNGĐ-ST ngày 26/8/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Long Điền (nay là huyện L).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Ngô Văn T, Trần Thị P
đảm bảo yêu cầu theo quy định tại Điều 272 nộp trong thời hạn quy định tại
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, ông T, L được miễn nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên toà, nguyên đơn mặt, bị đơn L vắng mặt nhưng đều
người đại diện theo pháp luật mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng
mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:
Cả năm cháu trong vụ án này đều là người chưa thành niên không còn cha
mẹ, do đó thuộc diện được giám hộ đương nhiên theo quy định tại khoản 2 Điều 52
Bộ luật Dân sự. Theo quy định, cả bốn người gồm ông nội (ông Ngô Văn T,
Trần Thị P) ông ngoại (ông Nguyễn Văn L4, Mai Thị L) đều người
giám hộ đương nhiên của các cháu.
Tuy nhiên, giữa hai bên nội – ngoại không đạt được thỏa thuận về việc cử một
hoặc một số người làm người giám hộ. vậy, Tòa án cấp thẩm xác định quan
hệ tranh chấp tranh chấp về quyền nuôi dưỡng cháu, thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân theo quy định tại khoản 8 Điều 28, khoản 1 Điều 35
khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ gia đình:
Vợ chồng ông Ngô Văn V và bà Nguyễn Thị Thủy D có năm con chung:
1. Ngô Quốc B (sinh ngày 14/5/2013)
2. Ngô Ngọc Bảo T3 (sinh ngày 08/10/2014)
3. Ngô Thảo L1 (sinh ngày 21/02/2017)
4. Ngô Phúc L2 (sinh ngày 15/9/2018)
5. Ngô Ngọc Huệ L3 (sinh ngày 18/12/2020)
Ông Ngô Văn V con chung của ông Ngô Văn T Trần Thị P, nên ông
bà là ông bà nội của năm cháu.
Nguyễn Thị Thủy D là con chung của ông Nguyễn Văn L4 và Mai Thị
Lê . Do ông L4 đã mất, bà Lê H1 là bà ngoại của năm cháu.
Hiện nay, do cha mẹ các cháu đều đã mất, ông T và bà P tranh chấp với L
về quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả năm cháu. Mai Thị L cũng yêu cầu phản
tố, đề nghị được quyền nuôi dưỡng năm cháu là hợp pháp.
[2.2] Điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng của ông bà nội và bà ngoại:
Vợ chồng ông Ngô Văn T Trần Thị P: Hiện đang sinh sống tại B,
huyện X, làm nghề trồng trọt và chăn nuôi. Thu nhập của gia đình ổn định và được
UBND B xác nhận. Ngoài ra, họ còn được hỗ trợ từ một phần quỹ từ thiện để
chăm sóc các cháu.
Mai Thị L: Kinh doanh sản xuất nước mắm theo hình thức hộ kinh doanh,
có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và nộp thuế từ năm 2010 đến nay.
Xét về điều kiện kinh tế, cả hai bên đều có khả năng chăm sóc và nuôi dưỡng
các cháu. Tuy nhiên, cả ông bà nội và bà ngoại đều đã lớn tuổi (từ 68 đến 74 tuổi),
nên việc đảm bảo chăm sóc lâu dài cho các cháu cần được cân nhắc kỹ lưỡng.
[2.3] Thực tế sinh sống của các cháu và quyền trực tiếp nuôi dưỡng:
Xét về yếu tố vật chất, Hội đồng xét xử nhận thấy, vyếu tố kinh tế, cả hai
gia đình đều đảm bảo về mặt kinh tế để chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu. Về yếu tố
sức khỏe, mặc dù cháu L2 trên danh nghĩa là sống với bà L nhưng thực tế theo ông
M2 trình bày bà L bị bệnh, đi lại khó khăn cần có người chăm sóc hàng ngày. Bà L
đã nằm một chỗ từ năm 2019 và hiện ông M2 đang trực tiếp chăm sóc bà. Do bà L
không thể trực tiếp chăm sóc cháu L2 được nên ông M2 đã giao việc nuôi dưỡng
cháu L2 cho ông Nguyễn Xuân Đ (con trai L). Tuy nhiên, ông Đ thị P đã
gia đình, con nhỏ bận rộn công việc kinh doanh không gần L các
con N việc chăm sóc cháu L2 cũng bị hạn chế. Cụ thể cháu L2 học
trường tiểu học M4 cả ngày, nhà xa trường nên buổi trưa ông Đ cũng không tiện
đón cháu L2 về đăn uống ngủ nghỉ tại nđược phải nhờ nhà người quen
của ông Đ gần trường, đến tối cháu L2 mới được trở về nhà ông Đ. Việc sinh
hoạt xa nhà, trưa ở nhà người quen cũng ảnh hưởng đến việc sinh hoạt bình thường
của bé. Việc xa các anh chị em ruột thịt, xa ông bà ngoại, ông bà nội và phải ở nhà
người thân khác cũng ảnh hưởng đến tâm sinh tình cảm của cháu các thành
viên khác. Với tình hình hiện tại, nếu tiếp tục để cháu L2 sống với L, việc chăm
sóc và giáo dục cháu sẽ không được đảm bảo tốt nhất.
Ngược lại, ông T P hiện vẫn khỏe mạnh, có nhiều thời gian để trực tiếp
quản giáo dục các cháu. Bốn cháu Ngô Quốc B, Ngô Thảo L1, Ngô Ngọc
Huệ L3 NNgọc Bảo T3 hiện đang sinh sống ổn định với ông nội. Các
cháu có điều kiện học tập tốt, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Ngoài
ra, gia đình ông T sự hỗ trợ từ các con ruột, gồm ông Ngô Văn T4 (phụ giúp
công việc chăn nuôi); vợ chồng Ngô Thị Thu H ông Phúc T5 (kinh doanh
gần nhà, thể hỗ trợ chăm sóc các cháu), hoặc các anh chị em ruột của cháu L2
cũng có thể hỗ trợ chăm sóc lẫn nhau.
Xét về đời sống tinh thần, cháu L2 hiện đang sống tách biệt với các anh ch
em ruột, trong khi độ tuổi này các cháu rất cần môi trường gia đình gần gũi để phát
triển toàn diện. Nếu được sống cùng các anh chị em ruột thịt của mình, cháu sẽ
sự gắn kết gia đình, yêu thương, hỗ trợ, đùm bọc nhau trong học tập cuộc sống,
giảm bớt tổn thương tinh thần do mất cha mẹ. Đồng thời đây cũng là cách giáo dục
để các cháu biết yêu thương, quan tâm, giúp đỡ nhau để khi lớn lên trưởng thành
các cháu vẫn giữ được tình cảm gắn bó anh chị em trong gia đình, vẫn thể tự
chăm lo cho nhau khi thiếu vắng những người giám hộ của mình.
Hơn thế nữa, các cháu hiện nay đã mất cả cha và mẹ, các cháu chỉ còn lại tình
yêu thương từ phía gia đình ông bà nội – ngoại hai bên. Tuy nhiên, vì sự tranh chấp
quyền nuôi cháu mà hai gia đình mâu thuẫn với nhau, không thể ngồi lại cùng nhau
chăm lo cho các cháu, bản thân các cháu cũng không có cơ hội tiếp xúc với nhau vì
cả hai bên đều lo sợ bên còn lại giữ các cháu để nuôi. Hội đồng xét xử nhận thấy,
trường hợp nếu đưa các cháu vcho nhà nội nuôi dưỡng, sống tại chính căn nhà
của cha mẹ ruột để lại, khi hội như lễ tết, nghỉ hè, ngày giỗ gia đình hai bên
tất cả các cháu đều được trở về với bên ngoại. Như vậy, u thuẫn giữa hai gia
đình nội ngoại cũng sẽ được xóa bỏ, các cháu được thoải mái sống trong tình yêu
thương của hai bên gia đình, từ đó cũng giáo dục cho các cháu hiểu về đạo đức làm
người, nhớ những kỷ niệm đã từng gắn với cha mẹ, nhớ cuội nguồn, nhớ ông
bà, các cháu sự tôn trọng đối với các bậc sinh thành của mình tình yêu
thương đầy đủ của hai gia đình nội ngoại, đồng thời tăng thêm sgắn giữa hai
bên gia đình thông gia.
Bên cạnh đó, hiện tại bốn cháu L3, L1, T3 B đã quen với môi trường sống
cùng ông nội, nên việc để cháu L2 về chung sống với ông T, P và bốn anh
chị em ruột sẽ giúp các cháu ổn định cuộc sống, đảm bảo quyền lợi học tập s
phát triển tâm bình thường của các cháu. Do đó, việc giao cả năm cháu cho vợ
chồng ông T, bà P nuôi dưỡng là hợp lý và cần thiết hơn.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn, giao năm cháu Ngô Quốc B, Ngô Thảo L1, Ngô Ngọc Huệ L3,
Ngô Ngọc Bảo T3Ngô Phúc L2 cho vợ chồng ông Ngô Văn T và bà Trần Thị P
trực tiếp nuôi dưỡng.
[2.4] Về cấp dưỡng:
Ông Ngô Văn T Trần Thị P không yêu cầu Mai Thị cấp D3 cho
các cháu, nên không xem xét.
[3] Về án phí sơ thẩm và phúc thẩm:
Ông Ngô Văn T, Trần Thị P Mai Thị Đ2 người cao tuổi
đơn xin miễn án phí. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn toàn bộ án phí
thẩm và phúc thẩm cho cả ba người.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ vào khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39, 47, 48. 272, 273, 313; Khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 84; Điều 104 và 105 Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn của ông Ngô Văn P1 Trần
Thị P, sửa Bản án hôn nhân gia đình thẩm số 58/2024/HNGĐ-ST ngày
26/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền (nay là huyện L).
2. Giao 05 cháu gồm Ngô Ngọc Huệ L3, sinh ngày 18/12/2020; Ngô Phúc
L2, sinh ngày 15/9/2018; Ngô Thảo L1, sinh ngày 21/02/2017; Ngô Ngọc Bảo T3,
sinh ngày 08/10/2014 và Ngô Quốc B, sinh ngày 14/5/2013 cho vợ chồng ông Ngô
Văn P1 và bà Trần Thị P chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ngô Văn P1
và bà Trần Thị P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi cháu.
Mai Thị L được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục cháu không ai được
quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi cháu có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền
thăm nom của người không trực tiếp nuôi cháu, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để
cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo
dục cháu. Trong trường hợp yêu cầu của cá nhân, tổ chức quy định tại Khoản 5
Điều 84 của Luật Hôn nhân Gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc
nuôi cháu và cấp dưỡng nuôi cháu theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí:
Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và phúc thẩm: Ông Ngô Văn T, bà Trần
Thị P và bà Mai Thị L là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên miễn án phí
cho ông T, bà PL.
4. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- VKSND H. Long Điền (nay là huyện Long Đất),
- TAND H. Long Điền (nay là huyện Long Đất);
- Chi cục THA DS H. Long Điền (nay huyện
Long Đất);
- Các đương sự.
- Lưu: Tòa Dân sự, Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đào Trọng Hải
Tải về
Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT Bản án số 02/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất