Bản án số 02/2025/HC-ST ngày 22/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/HC-ST ngày 22/01/2025 của TAND TP. Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 02/2025/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị H đối với UBND quận N, thành phố Đà Nẵng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 02/2025/HC-ST
Ngày: 22/01/2025
V/v “Khiếu kiện hành vi hành
chính và Quyết định hành chính”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Hoài Sơn
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trương Công Khánh
Ông Nguyễn Phi Hùng
- Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Công Trí - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên toà:
Bà Nguyễn Thị Tú Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 01 năm 2025, ti trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 26/2023/TLST-HC ngày 20/11/2023 theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 227/2024/QĐXXST-HC ngày 04/9/2024; Quyết định hoãn
phiên tòa số 229/2024/QĐST-HC ngày 18/9/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số
230/2024/QĐST-HC ngày 28/9/2024; Quyết định tm ngừng phiên toà số
238/2024/QĐST-HC ngày 28/10/2024; Thông báo về việc thụ lý bổ sung số
26A/2024/TLST-HC ngày 30/10/2024; Quyết định tm đình chỉ giải quyết vụ án hành
chính số 03/2024/QĐST-HC ngày 28/11/2024; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án
hành chính số 04/2024/QĐ-ST-HC ngày 02/12/2024; Thông báo về việc ấn định thời
gian, địa điểm mở li phiên toà số 559/TB-TA ngày 19/12/2024; Quyết định hoãn
phiên tòa số 205/2024/QĐST-HC ngày 30/12/2024 giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1957; Địa chỉ: Tổ 04, thôn Nam
Sơn, xã Hoà Tiến, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
+ Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Huỳnh M, sinh năm 1960; Địa chỉ:
H100/6 K322 đường H, phường chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Có mặt.
2
* Người bị kiện: Uỷ ban nhân dân (UBND) quận N, thành phố Đà Nẵng;
Địa chỉ: Số 486 đường L, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
+ Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Đức V - Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND quận N, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND thành phố Đ; Địa chỉ: Số
24 đường T, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
+ Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Lê Quang N - Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND thành phố Đ. Vắng mặt.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Võ Nguyên C - Chức vụ: Phó
Giám đốc Sở T thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 24 đường T, quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện của người khởi kiện bà Phạm Thị H; Đơn sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, tại phiên toà đại diện theo uỷ quyền
của người khởi kiện là ông Huỳnh M trình bày:
Năm 1995, gia đình bà Phm Thị H được UBND huyện Hòa Vang cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là Giấy CNQSD đất) cho thửa đất ti tổ 63,
phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn với diện tích 615m
2
đất ở.
Ngày 15/11/2004, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 11477/QĐ-
UBND thu hồi đất của hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết) để xây dựng
Khu tái định cư Đông Hải, diện tích thu hồi 157,5m
2
, trong đó hộ bà Mai Thị Chín
thu hồi diện tích 78,1m
2
, hộ bà Phm Thị H thu hồi diện tích 79,4m
2
.
Ngày 16/6/2006, bà Phm Thị H nộp hồ sơ cấp đổi Giấy CNQSD đất cho phần
diện tích còn li sau khi chuyển nhượng và bị thu hồi và đến ngày 18/12/2006 được
UBND quận N cấp Giấy CNQSD đất số AO 956152 ti tờ bản đồ 98, thửa 58, diện
tích 118,5m
2
đất ở đô thị cho bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết).
Ngày 05/8/2020, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 2850/QĐ-
UBND về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND ngày
15/11/2004 của UBND thành phố Đ, theo đó điều chỉnh nội dung “thửa đất 40, tờ bản
đồ số 98, diện tích 157,5m
2
do hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết) quản
lý, sử dụng” thành “thửa đất 184, tờ bản đồ số 103, diện tích 62,4m
2
do hộ bà hộ
Phm Thị H quản lý, sử dụng”.
Ngày 19/7/2012, UBND quận Ngũ Hành S ban hành Quyết định số 940/QĐ-
UBND thu hồi 10,2m
2
đất của hộ ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền.
Ngày 25/5/2021, UBND quận N ban hành Quyết định số 2063/QĐ-UBND điều
chỉnh Quyết định số 940/QĐ-UBND ngày 19/7/2012 của UBND quận N; theo đó
3
điều chỉnh người bị thu hồi đất từ ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền
thành hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết).
Như vậy, Nhà nước đã thu hồi của gia đình bà H là 76,2m
2
(trong đó UBND
thành phố thu hồi 62,4m
2
, UBND quận N thu hồi 10,2m
2
). Diện tích này nằm trong
Giấy chứng nhận đã được UBND huyện Hòa Vang cấp năm 1995. Căn cứ Điều 74
Luật Đất đai 2013 thì đất thu hồi có Giấy chứng nhận phải được bồi thường. Bồi
thường bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với đất thu hồi, phải dân chủ,
khách quan, công khai, kịp thời, đúng quy định. Sau khi có quyết định thu hồi, gia
đình đã làm đơn đề nghị Nhà nước chi trả tiền bồi thường và bố trí tái định cư và được
UBND quận nhiều lần đề xuất lên UBND thành phố nhưng vẫn không được chấp
thuận. Cho đến nay gia đình bà H vẫn chưa được phê duyệt các quyết định đền bù,
hỗ trợ và bố trí tái định cư.
Nay yêu cầu Tòa án tuyên: Hành vi của UBND quận N không ban hành Quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà H đối với diện
tích đất đã bị thu hồi 74,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày
05/8/2020 của UBND thành phố Đ và Quyết định thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021
của UBND quận N là trái pháp luật, buộc chấm dứt hành vi trái pháp luật trên.
Ngày 20/11/2024, Tòa án mở phiên toà tiến hành xét xử về yêu cầu khởi kiện
nêu trên của bà H, nhưng ti phiên tòa người bị kiện là UBND quận N đã ban hành
Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024 về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số
2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ nên người khởi kiện mới
biết và có yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024 của
UBND quận N.
* Tại Văn bản số 3280/UBND-BGPMB ngày 01/10/2024 về việc quan điểm
đối với yêu cầu khởi kiện và phiên toà ngày 20/11/2024 cũng như tại phiên toà hôm
nay ông Nguyền Đức V là người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện trình bày
như sau:
1. Về nguồn gốc sử dụng đất:
Hộ ông Nguyễn Phụng và bà Phm Thị H được UBND huyện Hòa Vang cấp
Giấy CNQSD đất số E 864824 ngày 24/4/1995 ti tờ bản đồ 6, thửa 900, diện tích
615,0m
2
đất thổ cư.
Ông Phụng và bà H chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Lan một phần diện tích
330,0m
2
theo Đơn xin chuyển nhượng được UBND phường Hòa Hải xác nhận ngày
l7/4/l997. Bà Lan đã được UBND quận N cấp Giấy CNQSD đất số AO 608220 ngày
12/01/2009 với diện tích 264,8m
2
; Ông Phụng và bà H chuyển nhượng cho bà Mai
Thị Chín một phần diện tích 220,0m
2
theo Đơn xin chuyển nhượng được UBND
phường Hòa Hải xác nhận ngày 10/5/2001. Bà Chín đã được UBND quận N cấp Giấy
CNQSD đất số AO 608234 ngày 12/01/2009 với diện tích 212,1m
2
.
4
Ngày 15/11/2004, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 11477/QĐ-
UBND thu hồi đất của hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết) để xây dựng
Khu tái định cư Đông Hải, diện tích thu hồi 157,5m
2
(trong đó hộ bà Mai Thị Chín
diện tích 78,1m
2
, hộ bà Phm Thị H diện tích 79,4m
2
).
Năm 2006, bà Phm Thị H nộp hồ sơ cấp đổi Giấy CNQSD đất cho phần diện
tích còn li sau khi chuyển nhượng và được UBND quận N cấp Giấy CNQSD đất số
AO 956152 đến ngày 18/12/2006 ti tờ bản đồ 98, thửa 58, diện tích 118,5m
2
đất ở
đô thị. Bà H nhận thừa kế 1/2 thửa đất và tài sản gắn liền với đất, đã hoàn thành thủ
tục sang tên ngày 08/10/2009 và chuyển nhượng toàn bộ cho ông Trần Công Nghĩa,
bà Hồ Thị Thúy Huyền được hoàn thành thủ tục trước b sang tên ngày 08/10/2009.
2. Quá trình giải quyết hồ sơ của hộ ông Nguyễn Phụng và bà Phm Thị H
Ngày 26/7/2006, UBND thành phố ban hành Quyết định số 5076/QĐ- UBND
về việc phê duyệt điều chỉnh Tổng mặt bằng quy hoch dự án Khu TĐC Đông Hải
nên diện tích đất thu hồi của hộ bà H điều chỉnh từ diện tích 79,4m
2
thành 10,2m
2
,
diện tích đất còn li 69,2m
2
(thửa đo li hiện nay với diện tích 62,4m
2
) là lối đi vào
của một trong ba thửa đất thuộc quyền sử dụng của ông Phm Phú Chúc (do nhận
chuyển nhượng của các hộ Nguyễn Thị Lan, Mai Thị Chín; Trần Công Nghĩa), đều là
các thửa mặt tiền đường Nguyễn Duy Trinh nên không thể tiến hành cấp Giấy CNQSD
đất diện tích 62,4m
2
cho bà Phm Thị H. Từ các yếu tố trên, Hội đồng đồng bồi thường
thiệt hi và giải phòng mặt bằng (viết tắt là BTTH & GPMB) trình UBND thành phố
cho phép thu hồi toàn bộ diện tích 64,2m
2
của hộ bà Phm Thị H.
Ngày 21/01/2020, UBND thành phố Đ có Công văn số 464/UBND- STNMT về
việc xử lý kiến nghị của bà Phm Thị H, giao Hội BTTH&GPMB quận Ngũ Hành
Sơn lập thủ tục trình điều chỉnh Quyết định thu hồi đất số 11477/QĐ-UBND ngày
15/11/2004 của UBND thành phố Đ, theo đó điều chỉnh thực hiện thu hồi đối với diện
tích 62,4m² của hộ bà Phm Thị H.
Ngày 05/8/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định số 2850/QĐ- UBND
về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND ngày 15/11/2004 của
UBND thành phố Đ, theo đó điều chỉnh thửa đất 40/98 diện tích 157,5m² thành thửa
184/103 diện tích 62,4m².
Ngày 16/04/2021, Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên - Môi trường có Công văn số
339/TTKTTNMT-QHLTXLHS về việc điều chỉnh hủy thửa đất 278/98 (DTSD:
189,7m²; DTTH: 10,2m²) đã quy chủ sử dụng cho ông Trần Công Nghĩa, điều chỉnh
thành thửa 187/103 (DTSD: 10,2m²; DTTH: 10,2m²) quy li chủ sử dụng đất cho bà
Phm Thị H.
Hội đồng BTTH&GPMB dự án nhận thấy: Thực hiện việc thu hồi đất đối với
hộ ông Nguyễn Phụng (chết) và bà Phm Thị H trên cơ sở hai Quyết định thu hồi đất:
- Quyết định số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà
Nẵng về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND ngày 15/11/2004
5
của UBND thành phố Đà Nẵng, điều chỉnh thửa đất 40/98 diện tích 157,5m² thành
thửa 184/103 diện tích 62,4m².
Quyết định của UBND quận N về việc thu hồi đất diện tích 10,2m² trước đây
quy chủ sử dụng ông Trần Công Nghĩa, nay điều chỉnh cho bà Phm Thị H.
Hội đồng BTTH&GPMB dự án họp, thống nhất trình UBND thành phố phê
duyệt giải quyết hồ sơ thu hồi đất đối với hộ bà Phm Thị H áp dụng theo diện thu hồi
một phần và thực hiện theo dự án Khu tái định cư Đông Hải.
Để giải quyết kiến nghị của hộ bà H, Hội đồng BTTH & GPMB đã họp rà soát
và trình UBND thành phố ti Tờ trình số 211/TTr-HĐ BTTH ngày 14/5/2021 của Hội
đồng BTTH, cụ thể như sau:
Mức bồi thường về nhà đất áp dụng theo dự án Khu tái định cư Đông Hải:
Giá đất thực hiện theo Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của
UBND thành phố Đà Nẵng: Vị trí 1, Khu vực I, hệ số 0,8 (đơn giá: 800.000đ/m²):
Bồi thường 100% đất ở diện tích: 72,6m²; Bồi thường 100% vật kiến trúc, cây
cối trên đất theo Quyết định 71/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành
phố Đà Nẵng:
Về bố trí đất tái định cư: Bố trí 01 (một) lô đất hộ chính đường 5,5m Khu tái
định cư Đông Hải. Giá thu tiền chuyển quyền sử dụng đất theo Quyết định số
70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, theo Thông báo kết luận số 341/TB-VP ngày 09/7/2021 của Văn
phòng UBND thành phố Đà Nẵng, có nội dung như sau: Không thống nhất theo đề
nghị của Hội đồng Bồi thường dự án ti Tờ trình số 211/TTr-HĐGPMB ngày
14/5/2021, giao UBND quận Ngũ Hành Sơn làm việc với hộ bà Phm Thị H và hộ
ông Phm Phú Chúc để vận động các hộ thỏa thuận đối với phần diện tích 62,4m² của
bà Phm Thị H.
Thực hiện ý kiến kết luận của Chủ tịch UBND thành phố ti Thông báo số
341/TB-VP ngày 09/7/2021 về việc giải quyết vướng mắc ti công tác GPMB một số
dự án trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn; theo đó, ti điểm 2a của Thông báo có nội
dung kết luận như sau: Giao UBND quận Ngũ Hành Sơn làm việc hộ bà Phm Thị
Huệ và hộ ông Phm Phú Chúc để vận động các hộ thỏa thuận đối với phần diện tích
62,4m
2
của hộ bà Phm Thị H. Hội đồng BTTH & GPMB đã mời và làm việc với hộ
ông Phm Phú Chúc và hộ bà Phm Thị H để tổ chức vận động các hộ thỏa thuận đối
với phần diện tích 62,4m
2
của hộ bà Phm Thị H vào các ngày 24/3/2022 và ngày
08/4/2022.
Qua 02 lần làm việc, ông Huỳnh M (đi diện theo ủy quyền của hộ bà Phm Thị
H) có tham dự; ông Phm Phú Chúc hiện nay đang sinh sống ti thành phố Hồ Chí
Minh, Hội đồng BTTH đã gửi giấy mời và liên hệ làm việc thì ông Phm Phú Chúc
có xác nhận 02 lần nhận giấy mời họp, nhưng ông Phm Phú Chúc không về tham dự
và có ý kiến trước đây gia đình mua thửa đất có thể hiện ti mặt tiền đường Nguyễn
6
Duy Trinh nên không thống nhất đề xuất thỏa thuận với hộ bà Phm Thị H, Hội đồng
BTTH đã có Báo cáo UBND thành phố ti Báo cáo số 117/BC-HĐ BTTH ngày
15/4/2022 về kết quả thực hiện và xin ý kiến chỉ đo để giải quyết nội dung kiến nghị
công dân.
Ngày 25/7/2022, UBND thành phố có Công văn số 4043/UBND-STNMT về
việc giải quyết kiến nghị đối với hộ bà Phm Thị H, theo đó giao cho UBND quận
Ngũ Hành Sơn tiếp tục làm việc với hộ bà Phm Thị H với hộ ông Phm Phú Chúc để
vận động thỏa thuận đối với phần diện tích 62,4 m2 của bà Phm Thị Huệ, trường hợp
vướng mắc, giao cho UBND quận Ngũ Hành Sơn có văn bản báo cáo, đề xuất gửi Sở
Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn xử lý.
Đối với nội dung làm việc với hộ bà Phm Thị H với hộ ông Phm Phú Chúc
để vận động thỏa thuận đối với phần diện tích 62,4m
2
của bà Phm Thị Huệ trước đây
Hội đồng BTTH & GPMB đã mời 02 lần để vận động nhưng ông Phm Phú Chúc
không hợp tác. Vì vậy, việc tiếp tục mời vận động các hộ là không khả thi. Hội đồng
BTTH & GPMB quận Ngũ Hành Sơn đã có Báo cáo số 230/BC-HĐ BTTH ngày
01/8/2022 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường
chủ trì mời các cơ quan liên quan đến quy hoch và cấp giấy chứng nhận QSD đất để
phối hợp, thống nhất bàn phương hướng giải quyết dứt điểm đối với hồ sơ bồi thường
giải tỏa của hộ bà Phm Thị H, báo cáo UBND thành phố xem xét, quyết định.
Ngày 04/8/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 3335/STNMT-
TTPTQĐ về việc liên quan đến giải quyết kiến nghị đối với hộ bà Phm Thị Huệ, theo
đó Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ giao cho Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố, phối hợp các ban ngành liên quan xác định quyền sử dụng đất đối với phần
diện tích đất 62,4m
2
sau khi các hộ đăng ký biến động. Trên cơ sở nội dung xác định
quyền sử dụng đất đối với phần diện tích 62,4m
2
của Văn phòng Đăng ký đất đai thành
phố Đà Nẵng, giao UBND quận N thực hiện việc bồi thường theo thẩm quyền.
Trên cơ sở đơn của hộ bà Phm Thị H, Hội đồng nhân dân (viết tắt là HĐND)
thành phố tổ chức tiếp dân. Ngày 08/11/2022, Văn phòng Hội đồng nhân dân thành
phố có Thông báo số 71/TB-VP về việc thông báo kết luận Thường trực HĐND thành
phố ti buổi tiếp bà Phm Thị Huệ, theo đó HĐND thành phố đề nghị UBND thành
phố chỉ đo các sở, ban ngành căn cứ các quy định pháp luật để sớm có phương án
giải quyết dứt điểm nội dung kiến nghị của ông Huỳnh M (đi diện theo ủy quyền của
bà Phm Thị H).
Ngày 26/12/2022, Văn phòng UBND thành phố có Công văn số 4831/VP-
BTCD về việc xử lý đơn của hộ ông Huỳnh M, theo đó yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi
trường chủ trì, phối hợp Hội đồng BTTH, hỗ trợ và tái định cư quận N rà soát, tham
mưu UBND thành phố sớm giải quyết dứt điểm kiến nghị của hộ ông Huỳnh M (đi
diện theo ủy quyền bà Phm Thị H), đảm bảo quyền lợi của công dân.
7
Ngày 13/2/2023, Sở Tài nguyên và Môi trường có Công văn số 329/STNMT-
TTPTQĐ về việc liên quan đến giải quyết kiến nghị của hộ bà Phm Thị H, theo đó
đề nghị UBND quận kiểm tra, xử lý theo quy định.
Ngày 07/3/2023, Hội đồng BTTH có Báo cáo số 48/BC-HĐ BTTH báo cáo và
đề xuất Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng về việc xử lý hồ sơ bồi
thường giải tỏa của hộ bà Phm Thị H, theo đó đề nghị thu hồi, bồi thường và giải
quyết bố trí đất tái định cư cho hộ bà Phm Thị H.
Ngày 21/04/2023, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố có Công văn số
788/VPĐKĐĐ-ĐKCGCN về việc về việc liên quan đến giải quyết kiến nghị đối với
hộ bà Phm Thị H (do ông Huỳnh M là người đi diện theo ủy quyền), gửi UBND
quận Ngũ Hành Sơn và Ban GPMB, theo đó xác định phần diện tích 62,4m
2
của hộ
bà Phm Thị H nằm toàn bộ trong thửa đất theo bản đồ 64/CP đã được cấp Giấy
CNQSD đất số E 864824 ngày 24/4/1995, ti thửa đất số 900, tờ bản đồ số 6 với diện
tích 615,0m
2
đất thổ cư và đề nghị UBND quận N và Ban GPMB giải quyết theo quy
định.
Để giải quyết dứt điểm đơn thư kiến nghị của hộ bà Phm Thị H, Hội đồng
BTTH có Báo cáo số 79/BC-HĐ BTTH ngày 13/4/2023 và Báo cáo số 112/BC-HĐ
BTTH ngày 12/5/2023 báo cáo Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND thành phố và
đề xuất hướng xử lý, cụ thể như sau:
- Cho phép thu hồi phần diện tích 62,4 m2 của hộ bà Phm Thị H theo dự án
khu tái định cư Đông Hải và thực hiện việc bồi thường theo dự án khu tái định cư
Đông Hải.
- Thực hiện việc bồi thường và bố trí đất tái định cư theo Tờ trình số 211/TTr-
HĐ BTTH ngày 14/5/2021 của Hội đồng BTTH, cụ thể như sau:
Mức bồi thường về nhà đất áp dụng theo dự án Khu tái định cư Đông Hải:
Giá đất thực hiện theo Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của
UBND thành phố Đà Nẵng: Vị trí 1, Khu vực I, hệ số 0,8 (đơn giá: 800.000đ/m²):
Bồi thường 100% đất ở DT: 72,6m²; Bồi thường 100% vật kiến trúc, cây cối
trên đất theo Quyết định 71/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố
Đà Nẵng:
Về bố trí đất tái định cư: Bố trí 01 (một) lô đất hộ chính đường 5,5m Khu tái
định cư Đông Hải. Giá thu tiền chuyển quyền sử dụng đất theo Quyết định số
70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố Đà Nẵng.
Ngày 17/5/2023, Sở Tài nguyên và Môi trường có Báo cáo số 288/BC- STNMT
về việc liên quan đến kiến nghị của hộ bà Phm Thị H, theo đó về quan điểm giải
quyết, Sở Tài nguyên và Môi trường nhận thấy diện tích 62,4m
2
nêu trên hiện nay liên
quan đến 02 hộ là hộ bà Phm Thị H và hộ ông Phm Phú Chúc, phương án vận động
các hộ thỏa thuận đối với phần diện tích 62,4m
2
là phù hợp. Sở Tài nguyên và Môi
trường kính đề nghị UBND thành phố giao UBND quận Ngũ Hành Sơn tiếp tục làm
8
việc với hộ bà Phm Thị H và hộ ông Phm Phú Chúc để vận động các hộ thỏa thuận
đối với phần diện tích 62,4m
2
theo chủ trương ti Thông báo kết luận số 341/TB-VP
ngày 09/7/2021 của Văn phòng UBND thành phố và Công văn số 4043/UBND-
STNMT của UBND thành phố; trường hợp không thỏa thuận được, đề nghị UBND
quận N hướng dẫn nộp đơn khởi kiện ti Tòa án để giải quyết.
Ngày 25/5/2023, UBND thành phố có Công văn số 2685/UBND-STNMT về
việc liên quan đến kiến nghị của hộ bà Phm Thị H, theo đó thống nhất theo đề nghị
của Sở Tài nguyên và Môi trường ti Báo cáo số 288/BC-STNMT ngày 17/5/2023;
giao UBND quận N tiếp tục làm việc hộ bà Phm Thị H và hộ ông Phm Phú Chúc
để vận động các hộ thỏa thuận đối với phần diện tích 62,4m
2
theo chủ trương ti Thông
báo kết luận số 341/TB-VP ngày 09/7/2021 của Văn phòng UBND thành phố và Công
văn số 4043/UBND-STNMT của Chủ tịch UBND thành phố; trường hợp không thỏa
thuận được, đề nghị UBND quận Ngũ Hành Sơn hướng dẫn nộp đơn khởi kiện ti Tòa
án để giải quyết.
Thực hiện theo ý kiến chỉ đo của UBND thành phố, ngày 02/6/2023, Hội đồng
BTTH tiếp tục mời hộ ông Phm Phú Chúc và ông Huỳnh M (đi diện theo ủy quyền
của hộ bà Phm Thị H) để tổ chức vận động các hộ thỏa thuận đối với phần diện tích
62,4m
2
của hộ bà Phm Thị H. Qua buổi làm việc ông Huỳnh M (đi diện theo ủy
quyền của hộ bà Phm Thị H) có tham dự; ông Phm Phú Chúc hiện nay đang sinh
sống ti thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng BTTH đã gửi giấy mời và liên hệ làm việc
thì ông Phm Phú Chúc có xác nhận nhận giấy mời họp, nhưng ông Phm Phú Chúc
không về tham dự và có ý kiến trước đây gia đình mua thửa đất có thể hiện ti mặt
tiền đường Nguyễn Duy Trinh nên không thống nhất đề xuất thỏa thuận với hộ bà
Phm Thị H. Hội đồng BTTH đã hướng dẫn ông Huỳnh M gửi đơn đến cơ quan Tòa
án để được xem xét giải quyết theo quy định.
3. Quan điểm của UBND quận
Trên cơ sở đề xuất của Hội đồng BTTH&GPMB quận và Sở Tài nguyên và Môi
trường, UBND thành phố Đà Nẵng có Công văn số 464/UBND-STNMT ngày
21/01/2020 về việc xử lý kiến nghị của bà Phm Thị H, theo đó giao Hội đồng
BTTH&GPMB lập thủ tục trình điều chỉnh Quyết định thu hồi đất số 11477/QĐ-
UBND ngày 15/11/2004 của UBND thành phố Đ, theo đó điều chỉnh thực hiện thu
hồi đối với diện tích 62,4m² của hộ bà Phm Thị H.
Ngày 05/8/2020, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 2850/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND ngày 15/11/2004 của
UBND thành phố Đ, theo đó điều chỉnh thửa đất 40/98 diện tích 157,5m² thành thửa
184/103 diện tích 62,4m².
UBND quận N đã chỉ đo Hội đồng BTTH&GPMB phối hợp cùng các đơn vị
liên quan rà soát đề xuất chủ trương giải tỏa đi hẳn đối với phần diện tích 62,4m² của
hộ bà Phm Thị H theo dự án Khu TĐC Đông Hải (kèm theo phương án bồi thường,
hỗ trợ và bố trí đất tái định cư, đề xuất giải quyết cụ thể ti Tờ trình số 211/TTr-HĐ
9
BTTH ngày 14/5/2021, Báo cáo số 79/BC-HĐ BTTH ngày 13/4/2023 và Báo cáo số
112/BC-HĐ BTTH ngày 12/5/2023 của Hội đồng BTTH&GPMB). Tuy nhiên, việc
đề xuất này đến nay không được UBND thành phố thống nhất (Thông báo kết luận số
341/TB-VP ngày 09/7/2021 của Văn phòng UBND thành phố Đ).
Hiện nay, UBND quận đã chỉ đo phòng Tài nguyên và Môi trường quận, Ban
Giải phóng mặt bằng quận, rà soát, tham mưu UBND quận ban hành Quyết định thu
hồi hủy bỏ Quyết định số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà
Nẵng liên quan đến phần diện tích 62,4m² của hộ ông Nguyễn Phụng (chết), bà Phm
Thị H (do không nằm trong quy hoch và thuộc phm vi đất chỉnh trang).
Hiện nay, phần diện tích 62,4m
2
ti thửa đất số 184, tờ bản đồ số 103, phường
Hòa Hải của hộ bà Phm Thị H không nằm trong quy hoch và thuộc phm vi đất
chỉnh trang, không có chủ trương quy hoch thu hồi theo dự án Khu TĐC Đông Hải.
Do đó, ngày 25/10/2024, UBND quận N ban hành Quyết định số 3781/QĐ-UBND về
việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành
phố Đ.
Từ những nội dung nêu trên, việc ban hành Quyết định số 3781/QĐ- UBND
ngày 25/10/2024 của UBND quận N là đúng theo quy định. Vì vậy, UBND quận N đề
nghị Tòa án bác yêu cầu khởi hiện ban đầu và yêu cầu khởi kiện bổ sung của người
khởi kiện về việc hủy Quyết định số 3781/QĐ-UBDN ngày 25/10/2024 của UBND
quận N.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND thành phố Đ trình bày có
tại hồ sơ như sau:
Bà Phm Thị H sử dụng đất có Giấy CNQSD đất số E 864824 do UBND huyện
Hòa Vang cấp ngày 24/4/1995 ti tờ bản đồ 6, thửa 900, diện tích 615,0m
2
đất thổ cư
cho hộ ông Nguyễn Phụng và bà Phm Thị H. Thửa đất trên có mặt tiền là đường
Nguyễn Duy Trinh.
Ông Phụng và bà H chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Lan một phần diện tích
330,0m
2
. Bà Lan đã được UBND quận N cấp Giấy CNQSD đất số AO 608220 ngày
12/01/2009 với diện tích 264,8m
2
.
Ông Phụng và bà H chuyển nhượng cho bà Mai Thị Chín một phần diện tích
220,0m
2
. Bà Chín đã được UBND quận Ngũ Hành Sơn cấp Giấy CNQSD đất số AO
608234 ngày 12/01/2009 với diện tích 212,1m
2
.
Ngày 07/11/2003, UBND thành phố ban hành Quyết định số 6987/QĐ-UB về
việc phê duyệt Tổng mặt bằng quy hoch chi tiết xây dựng Khu TĐC Đông Hải,
phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn; theo đó hộ bà Phm Thị H nằm trong diện thu
hồi một phần để nâng cấp, mở rộng đường Nguyễn Duy Trinh.
Ngày 15/11/2004, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 11477/QĐ-
UBND thu hồi đất của hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết) để xây dựng
10
Khu TĐC Đông Hải, diện tích thu hồi 157,5m
2
, bao gồm diện tích 02 hộ là hộ bà Mai
Thị Chín diện tích 78,1m, hộ bà Phm Thị H diện tích 79,4m
2
.
Ngày 26/7/2006, UBND thành phố ban hành Quyết định số 5076/QĐ- UBND
về việc phê duyệt điều chỉnh Tổng mặt bằng quy hoch dự án Khu TĐCĐông Hải;
theo đó diện tích đất thu hồi của hộ bà Phm Thị H để nâng cấp, mở rộng đường
Nguyễn Duy Trinh chỉ còn bị thu hồi là 10,2m
2
, phần diện tích đất còn li của bà Huệ
là 69,2m
2
không thu hồi nữa (thửa đất này nay đo li thực tế là 62,4m
2
).
Ngày 16/6/2006, bà Phm Thị H nộp hồ sơ cấp đổi Giấy CNQSD đất cho phần
diện tích còn li sau khi chuyển nhượng và đến ngày 18/12/2006 được UBND quận
Ngũ Hành Sơn cấp Giấy CNQSD đất số AO 956152 ti tờ bản đồ 98, thửa 58, diện
tích 118,5m
2
đất ở đô thị cho bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết).
Năm 2009, bà Phm Thị H nhận thừa kế 1/2 thửa đất và tài sản gắn liền với đất
ti Giấy CNQSD đất số AO 956152 ngày 18/12/2006 (phần di sản của ông Nguyễn
Phụng), đã hoàn thành thủ tục sang tên ngày 08/10/2009 và đã chuyển nhượng toàn
bộ cho ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền. Sau đó, ông Trần Công
Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền đã chuyển nhượng toàn bộ cho ông Phm Phú Chúc
và bà Phm Thị Thu Liễu.
Ngoài ra, ông Phm Phú Chúc đã nhận chuyển nhượng 02 thửa đất liền kề Giấy
CNQSD đất số AO 956152 ngày 18/12/2006 mà trước đây hộ bà Huệ chuyển nhượng
cho bà Nguyễn Thị Lan (Giấy CNQSD đất số AO 608220 ngày 12/01/2009) và bà
Mai Thị Chín (Giấy CNQSD đất số AO 608234 ngày 12/01/2009).
Từ thửa đất ban đầu theo Giấy CNQSD đất số E 864824 do UBND huyện Hòa
Vang cấp ngày 24/4/1995 đã được tách thành 03 thửa đất (Giấy CNQSD đất số AO
608220 ngày 12/01/2009 với diện tích 264,8m
2
; Giấy CNQSD đất số AO 608234
ngày 12/01/2009 với diện tích 212,1m
2
; Giấy CNQSD đất số AO 956152 ngày
18/12/2006 với diện tích 118,5m
2
) và 01 phần diện tích đất không thu hồi đất là
62,4m
2
do điều chỉnh quy hoch hiện là của bà H.
Ngày 19/7/2012, UBND quận N ban hành Quyết định số 939/QĐ-UBND thu
hồi đất 13,9m
2
đất của hộ ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền (thu hồi
một phần diện tích ti Giấy CNQSD đất số AO 608220 ngày 12/01/2009 mà ông
Nghĩa, bà Huyền đã nhận chuyển nhượng).
Ngày 19/7/2012, UBND quận N ban hành Quyết định số 940/QĐ-UBND thu
hồi đất 10,2m
2
đất của hộ ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền.
Ngày 19/7/2012, UBND quận N ban hành Quyết định số 941/QĐ-UBND thu
hồi đất 9,6m
2
đất của hộ ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền (thu hồi
một phần diện tích ti Giấy CNQSD đất số AO 608234 ngày 12/01/2009 mà ông
Nghĩa, bà Huyền đã nhận chuyển nhượng).
Ngày 21/01/2020, UBND thành phố có Công văn số 464/UBND-STNMT về
việc xử lý kiến nghị của bà Phm Thị H; theo đó chỉ đo liên quan đến việc thu hồi,
11
điều chỉnh Quyết định thu hồi đất do ở chỉnh quy hoch dự án Khu TĐC Đông Hải:
Yêu cầu Hội đồng bồi thường quận Ngũ Hành Sơn chủ trì, phối hợp với các đơn vị
có liên quan kiểm tra, xác minh, báo cáo rõ việc thiếu sót trong quá trình không thực
hiện điều chỉnh Quyết định thu hồi đất đối với thửa đất nêu trên; đồng thời, đề xuất
hình thức xử lý (nếu có) đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan dẫn đến việc khiếu
ni của bà Phm Thị H, báo cáo UBND thành phố xem xét, quyết định trong tháng
02 năm 2020.
- Liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ về đất đối với phần diện tích 62,8m
2
của bà Phm Thị H:
+ Giao Hội đồng bồi thường quận Ngũ Hành Sơn lập thủ tục trình điều chỉnh
Quyết định thu hồi đất số 11477/QĐ-UBND ngày 15/11/2004 của UBND thành phố
Đà Nẵng; theo đó, điều chỉnh chỉ thực hiện thu hồi đối với phần diện tích chưa được
bồi thường, hỗ trợ là 62,8m
2
của hộ bà Phm Thị H.
+ Đối với phần diện tích 10,2m
2
trước đây quy chủ và bồi thường cho ông Trần
Công Nghĩa (thực tế là nằm trong phần diện tích đất chưa bồi thường của bà Phm
Thị H chứ không phải phần diện tích còn li đã được cấp giấy chứng nhận mà bà Huệ
đã chuyển nhượng cho ông Nghĩa), đề nghị Hội đồng bồi thường quận Ngũ Hành Sơn
chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra, giải quyết theo thẩm quyền cho
phù hợp, tránh khiếu kiện, khiếu ni tiếp theo.
Ngày 05/8/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định số 2850/QĐ- UBND
về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND ngày 15/11/2004 của
UBND thành phố Đà Nẵng, theo đó điều chỉnh nội dung: “thửa đất 40, tờ bản đồ số
98, diện tích 157,5m
2
do hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết) quản lý, sử
dụng” thành “thửa đất 184, tờ bản đồ số 103, diện tích 62,4m
2
do hộ bà hộ Phm Thị
H quản lý, sử dụng”.
Ngày 25/5/2021, UBND quận N ban hành Quyết định số 2063/QĐ-UBND điều
chỉnh Quyết định số 940/QĐ-UBND ngày 19/7/2012 của UBND quận Ngũ Hành
Sơn; theo đó điều chỉnh người bị thu hồi đất từ ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị
Thúy Huyền thành hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết).
Ý kiến của UBND thành phố đối với yêu cầu khởi kiện của bà Phm Thị
H: Theo quy định ti khoản 2 Điều 66, điểm a khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013 thì
thẩm quyền quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư thuộc UBND quận N. UBND thành phố Đ đề nghị Tòa án xử lý theo
quy định của pháp luật.
* Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau
về việc giải quyết vụ án nhưng không có kết quả.
* Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham
gia phiên tòa:
12
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án,
Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với các đương
sự trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định Luật Tố
tụng hành chính.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật TTHC
đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phm Thị H đối với yêu cầu:
- Hủy Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024 của UBND quận N về việc hủy
bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố
Đ.
- Tuyên bố hành vi của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng không ban hành
quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Huệ đối với
diện tích đất đã bị thu hồi 74,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND
ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ và Quyết định thu hồi số 2063/QĐ ngày
25/5/2021 của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng là trái pháp luật, buộc chấm dứt
hành vi trái pháp luật trên.
- Án phí hành chính sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh
tụng các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; Lời trình bày của các bên đương
sự và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc
giải quyết vụ án, việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử cũng như các bên đương
sự trong quá trình tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng. Sau khi nghị án thảo luận,
Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Quá trình giải quyết vụ án và ti phiên tòa, người đi diện theo uỷ quyền
và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
UBND thành phố Đ vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 157 Luật Tố tụng hành chính,
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt UBND thành phố Đ.
[1.2] Về thời hiệu khởi kiện:
Bà Phm Thị Huệ bị Nhà nước thu hồi diện tích đất 62,4m
2
theo Quyết định
thu hồi số 2850/QĐ ngày 05/6/2020 của UBND thành phố Đ và diện tích đất 10,2m
2
theo Quyết định thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021 của UBND quận N. Tuy nhiên
vì chưa được cơ quan có thẩm quyền ra Quyết định phê duyệt bồi thường, hổ trợ và
bố trí tái định cư nên bà đã nhiều lần khiếu ni đến UBND thành phố Đ, UBND quận
N để yêu cầu thực hiện việc bồi thường và bố trí tái định cư. Quá trình giải quyết
khiếu ni của bà H được UBND quận N mời đối thoi để giải quyết nhiều lần. Ngày
02/6/2023, UBND quận N đã tổ chức buổi làm việc giải quyết khiếu ni của bà Huệ

13
và đã yêu cầu bà Huệ khởi kiện đến Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày
27/7/2023, bà Huệ có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng yêu
cầu: Tuyên bố hành vi của UBND quận N không ban hành Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Huệ đối với diện tích đất đã bị
thu hồi 74,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của
UBND thành phố Đà Nẵng và Quyết định thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021 của
UBND quận Ngũ Hành Sơn là trái pháp luật, buộc chấm dứt hành vi trái pháp luật
trên. Mặt khác ngày 05/9/2024, Ban Giải phóng mặt bằng quận Ngũ Hành Sơn tiếp
nhận đơn khiếu ni của bà H khiếu ni đến UBND quận về việc yêu cầu tiến hành bồi
thường và bố trí tái định cư theo quy định của pháp luật cho diện tích đất bị nhà nước
thu hồi. Ngày 05/9/2024, Ban Giải phóng mặt bằng đã có văn bản giải quyết đơn
khiếu ni của bà Huệ và yêu cầu bà Huệ khởi kiện đến Tòa án để giải quyết theo thẩm
quyền. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của bà H là còn thời hiệu khởi kiện theo quy định
ti Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về nội dung: Ti phiên toà, người khởi kiện bà Phm Thị H yêu cầu Tòa
án: Tuyên hủy Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024 của UBND quận N về việc
hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành
phố Đà Nẵng và tuyên bố hành vi của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng không ban
hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Huệ
đối với diện tích đất đã bị thu hồi 72,6m2 theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-
UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ và Quyết định thu hồi số 2063/QĐ
ngày 25/5/2021 của UBND quận N là trái pháp luật, buộc chấm dứt hành vi trái pháp
luật trên. Người bị kiện UBND quận N, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên quan điểm và
đề nghị Toà án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phm Thị H. Hội đồng xét
xử xét thấy:
[2.1] Về yêu cầu khởi kiện: Tuyên bố hành vi của UBND quận N không ban
hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Huệ
đối với diện tích đất đã bị thu hồi 72,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-
UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ và Quyết định thu hồi số 2063/QĐ
ngày 25/5/2021 của UBND quận N là trái pháp luật, buộc chấm dứt hành vi trái pháp
luật trên.
Hộ ông Nguyễn Phụng và bà Phm Thị H được UBND huyện Hòa Vang cấp
Giấy CNQSD đất số E 864824 ngày 24/4/1995 đối với thửa đất số 900, tờ bản đồ số
6, diện tích 615,0m
2
đất thổ cư. Thửa đất trên có mặt tiền là đường Nguyễn Duy Trinh.
Ông Phụng và bà H chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Lan một phần diện tích
là 330,0m
2
theo đơn xin chuyển nhượng được UBND phường Hòa Hải xác nhận ngày
17/4/1997 và được UBND quận N cấp Giấy CNQSD đất số AO 608220 ngày
12/01/2009 với diện tích 264,8m
2
; chuyển nhượng cho bà Mai Thị Chín một phần
diện tích đất là 220,0m
2
theo đơn xin chuyển nhượng được UBND phường Hòa Hải
xác nhận ngày 10/5/2001 và được UBND quận N cấp Giấy CNQSD đất số AO
608234 ngày 12/01/2009 với diện tích 212,1m
2
.
14
Ngày 15/11/2004, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 11477/QĐ-
UBND thu hồi đất của hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn Phụng (chết) để xây dựng
Khu tái định cư Đông Hải, diện tích thu hồi 157,5m
2
(trong đó có 02 hộ gồm: Hộ bà
Mai Thị Chín thu hồi diện tích 78,1m
2
; hộ bà Phm Thị H thu hồi diện tích 79,4m
2
).
Ngày 16/6/2006, bà Phm Thị H nộp hồ sơ cấp đổi Giấy CNQSD đất cho phần
diện tích còn li sau khi chuyển nhượng và bị thu hồi. UBND quận N cấp Giấy
CNQSD đất số AO 956152 ngày 18/12/2006 có thửa đất số 58, tờ bản đồ số 98, diện
tích 118,5m
2
đất ở đô thị cho bà Phm Thị H. Tuy nhiên, giấy chứng nhận cấp thể
hiện thửa đất giáp đường Nguyễn Duy Trinh là không đúng hiện trng ti thời điểm
được cấp do phía trước còn diện tích 62,4m
2
không thu hồi do điều chỉnh quy hoch.
Năm 2009, bà Phm Thị H nhận thừa kế 1/2 thửa đất và tài sản gắn liền với đất
ti Giấy CNQSD đất nêu trên (phần di sản của ông Nguyễn Phụng), đã hoàn thành
thủ tục sang tên ngày 08/10/2009 và đã chuyển nhượng toàn bộ cho ông Trần Công
Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền. Sau đó, ông Trần Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy
Huyền đã chuyển nhượng li cho ông Phm Phú Chúc và bà Phm Thị Thu Liễu.
Ngày 26/7/2006, UBND thành phố ban hành Quyết định số 5076/QĐ-UBND
về việc phê duyệt điều chỉnh tổng mặt bằng quy hoch dự án Khu tái định cư Đông
Hải nên diện tích thu hồi của hộ bà H điều chỉnh từ diện tích 79,4m
2
thành 10,2m
2
,
phần diện tích còn li 69,2m
2
không thu hồi (thửa đo li thực tế còn 62,4m
2
). Tuy
nhiên diện tích đất này của bà H đã bị thu hồi 79,4m
2
theo Quyết định số 11477/QĐ-
UBND không thể cấp li được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do nằm chắn ngay
trước mặt tiền và vướng lối đi vào lô đất của hộ ông Phm Phú Chúc và bà Phm Thị
Thu Liễu, vậy nên nếu bà H xây dựng nhà trên diện tích đất này thì hộ ông Chúc không
có lối đi.
Ngày 05/8/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định số 2850/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND ngày 15/11/2004 của
UBND thành phố Đà Nẵng, theo đó điều chỉnh nội dung: “thửa đất 40, tờ bản đồ số
98, diện tích 157,5m
2
” thành “thửa đất 184, tờ bản đồ số 103, diện tích 62,4m
2
” thu
hồi của bà Huệ.
Ngày 25/5/2021, UBND quận Ngũ Hành Sơn ban hành Quyết định số
2063/QĐ-UBND điều chỉnh Quyết định số 940/QĐ-UBND ngày 19/7/2012 của
UBND quận Ngũ Hành Sơn; theo đó điều chỉnh người bị thu hồi đất từ ông Trần
Công Nghĩa và bà Hồ Thị Thúy Huyền thành hộ bà Phm Thị H và ông Nguyễn
Phụng (chết).
Như vậy, hiện ti lô đất của bà H bị thu hồi tổng diện tích là 74,6m
2
(62,4m
2
+
10,2m
2
= 74,6m
2
) theo Quyết định số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND
thành phố Đà Nẵng về việc điều chỉnh nội dung Quyết định số 11477/QĐ-UBND
ngày 15/11/2004 thu hồi diện tích 62,4m
2
và Quyết định số 2063/QĐ ngày 25/5/2021
của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng thu hồi đất diện tích 10,2m
2
. Cho đến nay cơ
15
quan có thẩm quyền chưa ban hành quyết định phê duyệt bồi thường, hỗ trợ và bố trí
tái định cư cho bà H.
Ti các báo cáo của Hội đồng Bồi thường thiệt hi & Giải phóng mặt bằng quận
Ngũ Hành Sơn gửi UBND thành phố Đ xin ý kiến nêu rõ:
“Hội đồng BTTH & GPMB dự án họp, thống nhất trình UBND thành phố phê
duyệt giải quyết hồ sơ thu hồi đất đối với hộ bà Phạm Thị Huệ áp dụng theo diện thu
hồi một phần và thực hiện theo dự án Khu tái định cư Đông Hải.
Hội đồng BTTH đề xuất cụ thể như sau:
Mức bồi thường về nhà đất áp dụng theo dự án Khu tái định cư Đông Hải: Giá
đất thực hiện theo Quyết định số 70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND
thành phố Đà Nẵng: Vị trí 1, Khu vực I, hệ số 0,8 (đơn giá: 800.000đ/m);
Bồi thường 100% đất ở DT: 72,6m
2
; Bồi thường 100% vật kiến trúc, cây cối
trên đất theo Quyết định 71/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố
Đà Nẵng;
Về bố trí đất tái định cư: Bố trí 01 (một) lô đất hộ chính đường 5,5m Khu tái
định cư Đông Hải. Giá thu tiền chuyển quyền sử dụng đất theo Quyết định số
70/2007/QĐ-UBND ngày 20/12/2007 của UBND thành phố Đà Nẵng.”
Tuy nhiên, theo Thông báo kết luận số 341/TB-VP ngày 09/7/2021 của Văn
phòng UBND thành phố Đà Nẵng, có nội dung như sau: Không thống nhất theo đề
nghị của Hội đồng Bồi thường dự án giao UBND quận Ngũ Hành Sơn làm việc với
hộ bà Phm Thị H và hộ ông Phm Phú Chúc để vận động các hộ thỏa thuận đối với
phần diện tích 62,4m
2
của bà Phm Thị H, (vận động ông Chúc mua phần diện tích
đất này của bà H để tiến hành nhập cùng với thửa đất của ông Chúc).
Hội đồng Bồi thường thiệt hi đã nhiều lần mời và làm việc với hộ ông Phm
Phú Chúc và hộ bà Phm Thị H để tổ chức vận động các hộ thỏa thuận đối với phần
diện tích thu hồi còn li 62,4m
2
của hộ bà Phm Thị H nhưng ông Chúc không thống
nhất.
Ngày 25/5/2023, UBND thành phố có Công văn số 2685/UBND-STNMT về
việc liên quan đến kiến nghị của hộ bà Phm Thị H, theo đó thống nhất theo đề nghị
của Sở Tài nguyên và Môi trường giao UBND quận N tiếp tục làm việc với hộ bà
Phm Thị H và hộ ông Phm Phú Chúc để vận động các hộ thỏa thuận đối với phần
diện tích 62,4m
2
, trường hợp không thỏa thuận được, đề nghị UBND quận N hướng
dẫn nộp đơn khởi kiện ti Tòa án để giải quyết.
Xét thấy: Hộ bà H bị nhà nước thu hồi tổng diện tích là 74,6m
2
(62,4m
2
+
10,2m
2
= 74,6m
2
) theo Quyết định thu hồi số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của
UBND thành phố Đà Nẵng và Quyết định thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021 của
UBND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Đất của bà Huệ bị thu hồi là đất ở
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên được bồi thường về đất quy
định ti Điều 75 Luật đất đai 2013 (Điều 95 Luật đất đai 2024).

16
Theo quy định ti Điều 69 Luật Đất đai 2013 (Điều 87 Luật đất đai 2024)
quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
“3. Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết
định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
cùng một ngày;
b) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối
hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa
điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường,
hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi
thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn
giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;
c) Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt;…”
Theo quy định này thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành Quyết
định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
cùng một ngày.
Đối với hộ bà H đã được UBND thành phố Đ ban hành Quyết định thu hồi đất
số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 và UBND quận N, thành phố Đà Nẵng ban hành
Quyết định thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021 nhưng đến nay chưa ban hành Quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là trái với quy định của pháp
luật nêu trên.
Theo quy định ti Quyết định số 15/2017/QĐ ngày 10/4/2017 của UBND thành
phố Đ quy định về việc ban hành về quy trình thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thì đối với trường
hợp thu hồi đất của bà H về thẩm quyền ban hành Quyết định phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là thuộc UBND quận N, thành phố Đà Nẵng. Vì vậy,
Hội đồng xét xử thấy cần phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc không
ban hành Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà
Huệ đối với diện tích đất đã bị thu hồi 74,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-
UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà Nẵng và Quyết định thu hồi số
2063/QĐ ngày 25/5/2021 của UBND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng là trái
pháp luật, buộc chấm dứt hành vi trái pháp luật.
[2.2] Về yêu cầu khởi kiện: Hủy Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024 của
UBND quận Ngũ Hành Sơn về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND

17
ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà Nẵng.
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 25/10/2024 UBND quận Ngũ Hành Sơn đã ban
hành Quyết định số 3781/QĐ về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-
UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà Nẵng với lý do diện tích đất bị thu
hồi 62,4m
2
của bà H theo Quyết định số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 hiện nay
nằm ngoài vệt quy hoch của dự án nên UBND quận hủy quyết định thu hồi đất của
bà H để trả li đất cho bà H.
Tuy nhiên, theo các biên bản xác minh ti Ban Giải tỏa mặt bằng quận Ngũ
Hành Sơn ngày 20/9/2024; Công văn số 1638/CNNHS ngày 29/11/2024 của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai ti quận Ngũ Hành Sơn và ti phiên toà người đi
diện theo uỷ quyền của người bị kiện UBND quận N trình bày: Căn cứ Điều 254 Bộ
luật Dân sự thì diện tích đất còn li không bị thu hồi 62,4m
2
của bà H không được cấp
li Giấy CNQSD đất do thửa đất của bà H là lối đi vào của một trong ba thửa đất thuộc
quyền sử dụng của ông Phm Phú Chúc (do nhận chuyển nhượng của các hộ Nguyễn
Thị Lan, Mai Thị Chín; Trần Công Nghĩa).
Theo quy định ti Điều 17 Luật đất đai năm 2024 đã quy định về đảo đảm của
Nhà nước đối với người sử dụng đất
“1. Nhà nước bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp
của người sử dụng đất.”
Việc thửa đất của bà H hiện nay không nằm trong ranh giới thu hồi của dự án
nên không có căn cứ thu hồi. Tuy nhiên do lỗi của UBND quận N không kịp thời hủy
bỏ quyết định thu hồi dẫn đến việc sau 20 năm kể từ ngày thu hồi UBND mới ra Quyết
định số 3781/QĐ về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày
05/8/2020 của UBND thành phố Đà Nẵng đối với bà H gây hậu quả bà H không cấp
li được Giấy CNQSD đất làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà H.
Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho bà H, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải
hủy Quyết định số 3781/QĐ của UBND quận N về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất
số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ để UBND quận N thực
hiện việc ban hành Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho hộ bà Huệ đối với diện tích đất đã bị thu hồi 72,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất
số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà Nẵng và Quyết định
thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021 của UBND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng. UBND quận N, thành phố Đà Nẵng thực hiện quyền quản lý diện tích đất thu
hồi trên theo quy định của pháp luật.
[2.3] Từ nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà Phm Thị H về việc tuyên Hủy Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024
của UBND quận Ngũ Hành Sơn về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-
UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ và Tuyên bố hành vi của UBND quận
N, thành phố Đà Nẵng không ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Huệ đối với diện tích đất đã bị thu hồi 74,6m
2
theo Quyết

18
định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đ và Quyết
định thu hồi số 2063/QĐ ngày 25/5/2021 của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng là
trái pháp luật, buộc chấm dứt hành vi trái pháp luật trên theo như đề nghị của đi diện
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng ti phiên tòa.
[3] Về án phí hành chính sơ thẩm: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện bà Phm Thị H nên người bị kiện UBND quận N, thành phố Đà Nẵng phải
chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phm Thị H đối với UBND quận
N, thành phố Đà Nẵng.
Tuyên xử:
1. Hủy Quyết định số 3781/QĐ ngày 25/10/2024 của UBND quận N, thành phố
Đà Nẵng về việc hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-UBND ngày 05/8/2020
của UBND thành phố Đ.
2. Tuyên bố hành vi của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng không ban hành
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Phm Thị
H đối với diện tích đất đã bị thu hồi 74,6m
2
theo Quyết định thu hồi đất số 2850/QĐ-
UBND ngày 05/8/2020 của UBND thành phố Đà Nẵng và Quyết định thu hồi số
2063/QĐ ngày 25/5/2021 của UBND quận N, thành phố Đà Nẵng là trái pháp luật,
buộc chấm dứt hành vi trái pháp luật trên.
3. Án phí hành chính sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), UBND quận N
phải chịu.
Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt ti phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong thời hn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Riêng các đương sự vắng mặt ti phiên tòa sơ thẩm có quyền kháng cáo trong
thời hn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án ti địa
phương.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Cục THADS thành phố Đà Nẵng;
- Các đương sự;
- Hồ sơ vụ án;
- Tổ nghiệp vụ.
.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hoài Sơn
19
20
21
22
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm