Bản án số 01/2024/HC-PT ngày 26/12/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 01/2024/HC-PT ngày 26/12/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu
Số hiệu: 01/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/12/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẠC LIÊU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 01/2024/HC - PT
Ngày 26 tháng 12 năm 2024
V/v “ Khiếu kiện quyết định hành chính
hành vi hành chính về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực đất đai”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Kiều Anh
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Thúy Linh
Bà Tăng Trần Quỳnh Phương
- Thư phiên tòa: Minh Thu, Thư Tòa án nhân dân tỉnh Bạc
Liêu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa:
Trần Thị Ngọc Quyền, Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2024/TLPT-HC ngày 18 tháng 10 năm
2024 về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính hành vi hành chính về quản
nhà nước trong lĩnh vực đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s:
01/2024/QĐ- PT ngày 01 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện:Trần Diễm T, sinh năm 1973 (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Trần Diễm T: Ông Nguyễn
Trường T1 Luật sư của Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư thành phố C (Có mặt)
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện Hồng Dân
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện H
Địa chỉ: Ấp N, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trương Văn T2 Chức vụ: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện H (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
2
- Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Trí N, sinh năm 1966. Địa chỉ: Ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh
Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông Nguyễn T3 Nhiều: Trần Diễm T,
sinh năm 1973; Địa chỉ: Ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (Có mặt)
- Người kháng cáo: Trần Diễm T người khởi kiện ông Nguyễn
Trí N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong qtrình giải quyết vụ án tại phiên
tòa người khởi kiện Trần Diễm T đồng thời Trần Diễm T người đại diện
theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trí N trình
bày: và ông Nguyễn Trí N phần đất diện tích 530,5m
2
thuộc thửa số 29, tờ
bản đồ số 39 tọa lạc tại ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, nguồn gốc đất
do ông Nguyễn Trí N nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Tấn C, sinh năm 1962;
Địa chỉ: ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 29/8/1995. Lúc thực
hiện giao dịch mua bán hai bên có lập 01 tờ sang nhượng đất thổ cư vĩnh viễn, có
xác nhận của Trưởng ấp T ng 02 người hàng xóm, chứng thực của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thị trấn N ông Trần Quốc K vào ngày 24/11/1995. Sau khi
nhận chuyển nhượng thì bà ông N sử dụng diện tích đất nêu trên cho đến nay,
do bận việc làm ăn, buôn bán dạy học nên gia đình bà chưa làm thủ tục đăng
quyền sử dụng đất. Từ năm 2018 đến năm 2023, gia đình đã nhiều lần liên
hệ Ủy ban nhân dân thị trấn N làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với phần diện tích đất trên nhưng Ủy ban nhân dân thị trấn N không giải
quyết xác nhận nguồn gốc đất của bà.
Đến ngày 11/8/2023 Ủy ban nhân dân thị trấn N ban hành công văn số
05/CVTL UBND do ông Trương Văn T2 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn
N ký, trả lời về yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà và ông N,
cho rằng phần đất này nằm trên kênh rạch thuộc đất công do Nhà nước quản lý từ
trước năm 1975, đến ngày 24/11/1995 ông Nguyễn Văn N1 là cha ruột của ông
Nguyễn Trí N đơn mượn sử dụng môi trường chăn nuôi được ông Trần
Quốc K thời điểm này giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N vào
đơn chấp nhận cho ông Nguyễn Văn N1 mượn một hầm nuôi trong rạch Cầu
(thửa đất hiện nay ông Nguyễn Trí N xin đăng cấp giấy) khi nào nhà
trường cần xây dựng thì giao trả lại cho nhà trường. Ngoài ra, ng văn còn nêu
nội dung về việc gia đình bị xử phạt vi phạm hành chính. T không đồng ý
với nội dung Công văn số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của ông Trương
Văn T2 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N ký. Bởi vì, Công văn này được ban
hành không đúng quy định pháp luật, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp
của gia đình bà, bởi công văn nêu trên xác nhận không đúng về nguồn gốc đất,
cho rằng đất này đất công thuộc quyền quản lỷ của Nhà nước. Trong khi đó,
nguồn gốc đất này do gia đình nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Tấn C
đổi một phần với trường tiểu học N2, sử dụng liên tục từ năm 1995 cho đến
3
nay, tại hồ sơ địa chính thị trấn N thành lập năm 2006 thửa 29 có diện tích 584m
2
,
đến ngày 18/01/2021 xác minh đo đạc lại là 530,5m
2
do ông Nguyễn Trí N đứng
tên trên sổ mục chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng cho đối tượng
nào. Việc ông Nguyễn Văn N1 mượn đất hay không thì không liên quan đến
diện tích đất gia đình yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng,
không việc cùng ngày 24/11/1995 ông N nhận chuyển nhượng phần đất này
của ông C thì cùng ngày ông N1 cha ông Nhiều lại làm văn bản mượn đất của địa
phương, các văn bản này đều do ông Trần Quốc K nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thị trấn N ký xác nhận.
Nay T khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết hủy Công văn số
05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn N buộc Ủy
ban nhân dân thị trấn N thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật
(thực hiện xác nhận đúng nguồn gốc đất cho T, để T làm thủ tục công nhận
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bà đã yêu cầu Ủy ban nhân dân thị trấn N
xác nhận).
Người bị kiện là Chủ tịch y ban nhân dân thị trấn N người đại diện
theo pháp luật của người bị kiện Ủy ban nhân dân thị trấn N trình bày tại biên
bản ghi lời khai ngày 11/7/2024: Ngày 18/3/2019, Ủy ban nhân dân thị trấn N
nhận đơn xin đăng ký, cấp Giấy chng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn
Trí N Trần Diễm T, địa chỉ thường trú: Ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc
Liêu. Nội dung xin đăng ký, cấp Giấy chứng nhận tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số
39, diện ch 375,9m
2
, mục đích trồng cây lâu năm, địa chỉ thửa đất tại ấp T, thị
trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Nguồn gốc đất theo ông N và bà T xác định là do
ông Nguyễn Văn N1 cha ruột của ông Nguyễn Trí N tkhai phá từ năm 1990,
đến năm 1995 thì cho lại con ông Nguyễn Trí N, ông N tiếp tục sử dụng ổn
định cho đến nay.
Ngày 06/10/2022, ông Nguyễn Trí N và bà Trần Diễm T tiếp tục gửi hồ
xin đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 29, tờ bản đồ
số 39, diện tích 530,5m
2
, mục đích trồng cây lâu năm, địa chỉ thửa đất tại ấp T, thị
trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Nguồn gốc đất theo ông N và bà T xác định là do
ông Nguyễn Văn N1 cha ruột của ông Nguyễn Trí N tkhai phá từ năm 1995,
đến năm 1996 thì cho lại con là ông Nguyễn Trí N và dâu là bà Trần Diễm T, ông
N và bà T tiếp tục sử dụng ổn định cho đến nay.
Ngày 24/7/2023, ông Nguyễn Trí N bà Trần Diễm T tiếp tục gửi hồ
xin đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 29, tờ bản đồ
số 39, diện tích 530,5m
2
, mục đích trồng cây lâu năm, địa chỉ thửa đất tại ấp T, thị
trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Nguồn gốc đất theo ông N và bà T xác định là do
ông Nguyễn Tấn C chuyển nhượng cho ông Nguyễn Trí N và bà Trần Diễm T tại
thửa số 510, tờ bản đồ số 02 diện tích 750m
2
vào ngày 29/8/1995, đến năm 2007
Ủy ban nhân dân huyện H cấp đổi lại thành thửa số 30, tờ bản đồ số 39 diện tích
316,9m
2
, ông N và bà T xác định diện tích mà ông N và bà T được cấp là thiếu so
với nguồn gốc nhận chuyển nhượng 530,5m
2
, gia đình ông đã sử dụng ổn
định không tranh chấp.
4
Qua kiểm tra hồ đăng ký, vị trí thửa đất, hồ địa chính và hsơ đất
công của thị trấn N có liên quan đến nguồn gốc đất:
Về nguồn gốc đất: Phần đất này nằm trên kênh rạch thuộc đất công do
Nhà nước quản lý từ trước năm 1975. Đến ngày 24/11/1995, ông Nguyễn Văn N1
cha ruột ông Nguyễn TN đơn mượn sử dụng môi trường chăn nuôi
được ông Trần Quốc K thời điểm này gichức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị
trấn N ký vào đơn chấp thuận cho phép ông Nguyễn Văn N1 mượn một hầm nuôi
trong rạch Cầu (thửa đất hiện nay ông Nguyễn Trí N Trần Diễm
T xin kê khai đăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Khi nào N
trường có nhu cầu cần xây dựng thì phải giao trả lại cho Nhà nước.
Năm 2013, ông Nguyễn Trí N cất nhà vi phạm phần đất công do Nhà nước
quản lý. Ủy ban nhân dân thị trấn N lập biên bản vi phạm hành chính số 01/BB-
VPHC ngày 14/3/2013 của Ủy ban nhân dân thị trấn N về việc lấn, chiếm sử dụng
xây dựng công trình nhà ở riêng lẻ của gia đình trên phần đất ao đìa thuộc quỹ đất
công do Ủy ban nhân dân thị trấn N đang quản theo Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 53/QĐ-XPHC ngày 18/3/2013 của Ủy ban nhân dân thị trấn
N.
Quá trình xác minh thực tế: Phần đất ông Nguyễn Trí N và bà Trần Diễm T
xin đăng cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất khai nguồn gốc không
đúng thực tế, do phần đất này là đất công Nhà nước quản lý. Đồng thời công chức
địa chính Ủy ban nhân dân thị trấn N cũng đã nhiều lần hướng dẫn, đề nghị ông N
T khai nguồn gốc đất đúng thực tế để Ủy ban nhân dân thị trấn N
sở để xác nhận hồ đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T
ông N đúng quy định pháp luật nhưng ông N và T không thực hiện đúng
theo hướng dẫn.
Nay, Trần Diễm T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy Công văn
số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn N buộc
Ủy ban nhân dân thị trấn N thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp
luật (thực hiện xác nhận đúng nguồn gốc đất cho T, để T làm thủ tục công
nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đã yêu cầu Ủy ban nhân dân thị
trấn N xác nhận). Ông là người bị kiện là người người đại diện theo pháp luật
của người bkiện Ủy ban nhân dân thị trấn N, ông không đồng ý theo yêu cầu
khởi kiện của Trần Diễm T, ông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết theo quy
định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 22/8/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của Trần Diễm T về việc yêu cầu hủy Công văn
số 05/CVTL – UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn N và buộc Ủy
ban nhân dân thị trấn N thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật
(thực hiện xác nhận đúng nguồn gốc đất cho bà T, để bà T làm thủ tục công nhận
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bà đã yêu cầu Ủy ban nhân dân thị trấn N
xác nhận).
5
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên án phí quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 05/9/2024, Trần Diễm T người khởi kiện ông Nguyễn Trí N
người người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà Trần Diễm T trình bày ý
kiến tranh luận:
Nguồn gốc đất của ông N T nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn
Tấn C tại thửa số 510, tờ bản đồ số 02 diện tích 750m
2
vào ngày 29/8/1995, đến
năm 2007 Ủy ban nhân dân huyện H cấp đổi lại thành thửa số 30, tờ bản đồ số 39,
diện tích 316,9m
2
, ông N và bà T được cấp là thiếu so với nguồn gốc nhận chuyển
nhượng của ông C là 530,5m
2
, gia đình ông đã sử dụng ổn định không tranh
chấp. Ông N bị xử phạt vi phạm hành chính do không làm đơn xin phép xây dựng
nhà chứ không phải lấn chiếm đất công của Nhà nước do đó việc Ủy ban nhân
dân thị trấn N xử phạt vi phạm hành chính không đúng. Trong Biên bản xử
phạt vi phạm hành chính, ông N chỉ tên, không ghi ý kiến nhưng trong Biên
bản xử phạt vi phạm hành chính lại ghi thêm việc ông N thừa nhận đất ông đang
sử dụng mượn của Nhà nước đồng ý giao trả khi nào Nhà nước yêu cầu.
Mặt khác, văn bản số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân
thị trấn N được ban hành không đúng quy định của pháp luật và không đủ căn cứ.
Trường học có đổi đất với ông N nhưng cấp thẩm không làm rõ, không lấy lời
khai của những người làm chứng. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp
nhận kháng cáo của T, ông N, sửa bản án thẩm hủy Công văn số 05/CVTL
UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn N buộc Ủy ban nhân
dân thị trấn N thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (thực hiện
xác nhận đúng nguồn gốc đất cho T, để T làm thủ tục công nhận quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất đã yêu cầu Ủy ban nhân dân thị trấn N xác
nhận).
Trần Diễm T đồng ý với ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho bà, không có ý kiến bổ sung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ
vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng
hành chính.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, đề nghị
Hội đồng xét xbác kháng cáo của Trần Diễm T ông Nguyễn Trí N, giữ
nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày 22/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến tranh luận của Luật sư, ý kiến của Kiểm sát viên,
các quy định của pháp luật Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hành chính nhận
thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của Trần Diễm T ông Nguyễn Trí N còn trong
hạn luật định và đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính nên Hội đồng xét xử
xem xét lại bản án hành chính sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện Trần Diễm T đồng thời
người đại diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Trí N, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho T mặt; người bị
kiện Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện H có đơn đề
nghị xét xử vắng mặt; căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người bị kiện là đúng quy định pháp luật.
[1.3] Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền ban hành Quyết định hành chính
thời hiệu khởi kiện như cấp thẩm nhận định đúng quy định tại khoản 2,
khoản 4 Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31, điểm a khoản 2 Điều 116
Luật Tố tụng hành chính.
[1.4] Trong quá trình tố tụng bà Trần Diễm T đơn yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm tiến hành trưng cầu giám định chữ viết chữ trên “Đơn xin sử
dụng môi trường chăn nuôi” phải của ông Nguyễn Văn N1 (cha chồng T)
không và “Biên bản trao Quyết định xử phạt vi phạm hành chính” ngày 18/3/2013
phải của ông Nguyễn Trí N (là chồng T) không. Xét thấy, căn cứ theo yêu
cầu khởi kiện của T nội dung kháng cáo của T ông N, cấp phúc chỉ
xem xét tính hợp pháp căn cứ của Quyết định hành chính hành vi hành
chính bị kiện nên yêu cầu giám định của bà T là không cần thiết nên Hội đồng xét
xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu trưng cầu giám định của bà T.
[2] Về nội dung:
Xét kháng cáo của Trần Diễm T ông Nguyễn Trí N yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
T, hủy Công văn số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân th
trấn N và buộc Ủy ban nhân dân thị trấn N thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy
định của pháp luật (thực hiện xác nhận đúng nguồn gốc đất cho T, để T
làm thủ tục công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đã yêu cầu Ủy
ban nhân dân thị trấn N xác nhận), thấy rằng:
[2.1] Xét tính hợp pháp căn cứ của Quyết định hành chính Công
văn số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn N về
việc xác nhận nguồn gốc đất của bà T, ông N (Bút lục số 12)
[2.1.1] Về nguồn gốc đất:
7
Theo lời trình bày của Trần Diễm T: chồng ông Nguyễn Trí
N phần đất diện tích đất 530,5m
2
thuộc thửa số 29, tờ bản đồ số 39 tọa lạc tại
ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, nguồn gốc đất do ông Nguyễn Trí N
nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Tấn C vào ngày 29/8/1995. Lúc thực hiện
giao dịch chuyển nhượng hai bên lập tờ sang nhượng đất thổ vĩnh viễn,
xác nhận của trưởng ấp T cùng 02 người hàng xóm, chứng thực của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thị trấn N ông Trần Quốc K vào ngày 24/11/1995. Sau khi
nhận chuyển nhượng thì bà ông N sử dụng diện tích đất nêu trên cho đến nay,
do bận việc làm ăn, buôn bán dạy học nên gia đình bà chưa làm thủ tục đăng
quyền sử dụng đất. Từ năm 2018 đến năm 2023, gia đình đã nhiều lần liên
hệ Ủy ban nhân dân thị trấn N làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với phần diện tích đất trên nhưng Ủy ban nhân dân thị trấn N không giải
quyết xác nhận nguồn gốc đất của bà.
Theo lời trình bày của người bị kiện: Thửa đất mà hiện nay ông Nguyễn Trí
N và Trần Diễm T xin khai đăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là nằm trên kênh rạch thuộc đất công do Nhà nước quản lý từ trước năm 1975.
Ông N T khai nguồn gốc đất không đúng thực tế, do phần đất này đất
công Nhà nước quản lý. Đồng thời công chức địa chính Ủy ban nhân dân thị trấn
N cũng đã nhiều lần hướng dẫn, đề nghị ông N T khai nguồn gốc đất
đúng thực tế để Ủy ban nhân dân thị trấn N sở xác nhận hồ đăng cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T ông N đúng quy định pháp luật
nhưng ông N và bà T không thực hiện đúng theo hướng dẫn.
[2.1.2] Căn cứ các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án
thu thập trong hồ sơ, Hội đồng xét xử phúc thẩm đủ căn cứ nhận định như
sau:
Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, T xác định vào năm
1995 vợ chồng nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Tấn C phần đất diện
tích 750m
2
thuộc thửa đất số 510, tbản đồ số 02, đất tại ấp T, thị trấn N, huyện
H, tỉnh Bạc Liêu (Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn
Tấn C theo Quyết định số 525/QĐ-UB do Ủy ban nhân dân huyện H ngày
27/8/1997). Vợ chồng T quản lý, sử dụng đến năm 2007 được Ủy ban nhân
huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất đối với phần đất nhận chuyển
nhượng của ông C diện tích 316,9m
2
, thửa đất số 30, tờ bản đồ số 39 (thửa đất số
510, tờ bản đồ số 02 cũ). Như vậy, căn cứ vào Hồcấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông Nguyễn Tấn C ông Nguyễn Trí N (Bút lục số 62-69) thì
phần đất T ông N nhận chuyển nhượng của ông C thửa 510 diện 750m
2
hiện nay T, ông N đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện
tích 316,9m
2
, tại thửa đất số 30 (thửa 510 cũ) schênh lệch diện tích là do
năm 1997 Nhà nước cấp theo bản đồ không ảnh, cấp đại trà theo sự khai của
người dân khi ông N, T nhận chuyển nhượng không đo đạc thực tế, đến
năm 2007 ông N, T khai cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất theo bản
đồ chính quy đo đạc thực tế thửa đất nên diện tích giảm hơn so với thời điểm
nhận chuyển nhượng.
8
[2.1.3] Căn cứ phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày
18/01/2021 có sự xác nhận của Trần Diễm T và ông Nguyễn Trí N (Bút lục số
08, 09), thể hiện phần đất hiện nay Trần Diễm T ông Nguyễn Trí N đang
quản lý, sử dụng có diện tích 530,5 m
2
, thuộc thửa đất số 29, tờ bản đồ số 39, địa
chỉ đất tại ấp T, thị trấn N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Tại phần phụ chú kèm theo
Phiếu xác nhận kết quả đo đạc xác định: Trên hồ sơ địa chính thị trấn N thành lập
năm 1993 thì thửa đất số 29, diện tích 530,5 m
2
nằm trên phần kênh giáp Sông N
liền kề thửa số 510, tờ bản đồ số 02 (thể hiện trên bản đồ địa chính thị trấn N
thành lập năm 1993). Trên hồ sơ địa chính thị trấn N thành lập năm 2006 thì thửa
đất số 29, diện tích 530,5 m
2
do ông Nguyễn TN đứng tên trên sổ mục
chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đối tượng nào.
[2.1.4] Như vậy, ông N nhận chuyển nhượng đất của ông Nguyễn Tấn C là
phần đất nằm tại thửa số 510, tờ bản đồ số 02 phần đất nằm liền kề với thửa số
29, tbản đồ số 39 hiện nay ông N, T đang quản lý, sử dụng xin cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; phần đất tại thửa 510, tờ bản đồ số 02 thì
ông N và bà T đã kê khai và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nay
là thửa số 30 tờ bản đồ số 39 không liên quan đến phần đất này.
[2.1.5] Đối chiếu với nội dung xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn N tại
Văn bản hành chính s05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 nội dung thể hiện:
Về nguồn gốc đất: Phần đất này nằm trên kênh rạch thuộc đất công do Nhà
nước quản ttrước năm 1975. Đến ngày 24/11/1995, ông Nguyễn Văn N1
cha ruột ông Nguyễn Trí N đơn mượn sử dụng môi trường chăn nuôi được
ông Trần Quốc K thời điểm này giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N
vào đơn chấp thuận cho phép ông Nguyễn Văn N1 mượn một hầm nuôi
trong rạch Cầu (thửa đất hiện nay ông Nguyễn Trí N Trần Diễm T
xin khai đăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Khi nào Nhà
trường có nhu cầu cần xây dựng thì phải giao trả lại cho Nhà nước.
[2.1.6] Mặt khác, Căn cứ biên bản xác minh ngày 07/4/2021 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện H về việc xác minh nguồn gốc thửa đất xin đăng
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Trí N tại thửa đất số 29,
tờ bản đồ số 39 (Bút lục s114, 115) thể hiện nội dung như sau: Theo lời trình
bày của ông Trần Quốc K nguyên là Chủ tịch thị trấn N vào năm 1995. Vị trí đất
nêu trên trước đây thuộc đoạn rạch Cầu do Nhà nước chủ trương làm lộ
nên đắp chắn ngang một đoạn rạch và mở đường ra mi hiện nay là tại vị trí câu
cầu kè. đoạn rạch cùng không sử dụng vào mục đích giao thông, vị trí giáp
với đất của ông Nguyễn Trí N nên vào năm 1995 ông Nguyễn Văn N1 cha của
ông Nguyễn Trí N làm đơn xin mượn đoạn rạch này cho ông Nguyễn Trí N sử
dụng vào mục đích nuôi tôm khi nào cần sử dụng vào mục đích chung sẳn
sàn giao lại.
[2.1.7] Tại biên bản xác minh ngày 12/8/2024 của Tòa án, ông Trần Quốc
K nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N xác nhận: Vào ngày
24/11/1995, ông xác nhận đơn xin sử dụng môi trường chăn nuôi ngày
09/11/1995 của ông Nguyễn Văn N1 (là cha ruột của ông Nguyễn Trí N) mượn
9
một phần đất thuộc kênh rạch thuộc quyền quản của Ủy ban nhân dân thị trấn
N để chăn nuôi cá, cải thiện cuộc sống với điều kiện sau này nếu Ủy ban nhu
cầu sử dụng vào mục đích chung tông N1 sẵn sàng giao lại cho Ủy ban nhân
dân thị trấn N (Bút lục số A)
[2.1.8] Ngoài ra, căn cứ vào hồ xử phạt vi phạm hành chính năm 2013
của Ủy ban nhân dân thị trấn N thể hiện: Tại Biên bản vi phạm hành chính ngày
14/3/2013 (Bút lục số 100) xác định ông Nguyễn Trí N đã hành vi lấn chiếm
phần đất ao, đìa (đất phi nông nghiệp) thuộc quỹ đất do Ủy ban nhân dân thị trấn
N đang quản lý, diện tích 27,5m
2
, giáp thửa đất số 30, tờ bản đồ số 39 thuộc
quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Trí N. Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 53/QĐ-XPHC ngày 18/3/2013 của Ủy ban nhân dân thị trấn N đã xử
phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Trí N đã hành vi vi phạm pháp
luật đất đai lấn, chiếm sử dụng xây dựng công trình nhà riêng lẻ của gia đình
trên phần đất ao đìa thuộc quỹ đất công do Ủy ban nhân dân thị trấn N đang quản
(tại thửa đất số 29, tờ bản đsố 39 giáp với thửa đất số 30, tờ bản đồ số 39
thuộc quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Trí N). Ngoài ra, tại biên bản trao
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính (Bút lục số 101) thì ông N đã ý kiến
thừa nhận phần đất ông xây dựng nhà của Ủy ban nhân dân thị trấn N đang
quản lý, việc ông N thực hiện xây dựng nhà của Ủy ban nhân dân thị trấn N
quản xin cho tồn tại công trình như hiện trạng khi nào Ủy ban nhân dân thị
trấn T4 sẽ trả lại. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên hiện nay ông N đã
thi hành xong và không có khiếu nại.
[2.1.9] Như vậy, nội dung xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn N tại
Công văn số 05/CVTL-UBND ngày 11/8/2023 phù hợp căn cứ các
phần đất này không thuộc quyền sử dụng đất được cấp cho T ông N
phần đất này nằm trên kênh rạch thuộc đất công do Nhà nước quản từ trước
năm 1975. Ông N và bà T kê khai nguồn gốc đất không đúng thực tế, do phần đất
này đất công Nhà nước quản lý. Đồng thời công chức địa chính Ủy ban nhân
dân thị trấn N cũng đã nhiều lần hướng dẫn, đề nghị ông N và bà T kê khai nguồn
gốc đất đúng thực tế đỦy ban nhân dân thị trấn N sở xác nhận hồ sơ đăng
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T và ông N đúng quy định
pháp luật nhưng ông N và bà T không thực hiện đúng theo hướng dẫn.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 141 của Luật đất đai năm 2013: “Đất bãi
bồi ven sông, ven biển thuộc địa phận xã, phường, thị trấn nào thì do Ủy ban nhân
dân cấp xã đó quản lý”, tuy Điều luật này không có ghi từ “ven rạch” nhưng rạch
vốn một nhánh nhỏ của sông đất sông, ngòi, kênh, rạch được quy định
chung nhóm đất phi nông nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật
đất đai năm 2013 và theo quy định tại Điều 163 của Luật đất đai năm 2013 thì đất
sông, ngòi, kênh, rạch do Nhà nước quản lý.
[2.1.10] Xét thấy Công văn số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy
ban nhân dân thị trấn N về thẩm quyền ban hành, trình tự thủ tục nội dung
đúng quy định như cấp thẩm giải quyết căn cứ. Nên không căn cứ
chấp nhận kháng cáo của Tông N.
10
[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T bổ sung yêu cầu kháng cáo về việc yêu
cầu hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 53/QĐ-XPHC ngày 18/5/2013
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn N. Xét thấy, nội dung yêu cầu này của bà T
vượt quá phạm vi khởi kiện, kháng cáo ban đầu; đồng thời, cấp thẩm chưa
thụ lý xem xét giải quyết nên căn cứ phạm vi xét xử cấp phúc thẩm không thể đặt
ra xem xét. Căn cứ khoản 2 Điều 218 của Luật Tố tụng hành chính quy định việc
thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự không được vượt quá phạm vi kháng
cáo ban đầu. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận việc bổ sung nội dung
kháng cáo này của bà T.
[3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không căn
cứ chấp nhận kháng cáo của T, ông N; không căn cứ chấp nhận ý kiến của
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của T; Kiểm sát viên đề nghị bác
kháng cáo của T, ông N, giữ nguyên bản án hành chính thẩm số
01/2024/HC-ST ngày 22/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc
Liêu là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Các phần khác của Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2024/HC-ST ngày
22/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu không bị kháng
cáo, kháng nghị sẽ phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
[5] Án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo của bà T, ông N không
được Tòa án chấp nhận nên T ông N cùng phải nộp án phí số tiền 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
Bác kháng cáo của bà Trần Diễm T và ông Nguyễn Trí N; Giữ nguyên Bản
án hành chính thẩm s01/2024/HC-ST ngày 22/8/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
Căn cứ vào các Điều 30, Điều 31; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 348
Luật Tố tụng hành chính; các Điều 10, 11, 141, 163 của Luật Đất đai năm
2013các Điều 3, 60, 70 của Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP15/5/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết thi nh một số điều của Luật đất đai; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của Trần Diễm T về việc yêu cầu hủy Công
văn số 05/CVTL UBND ngày 11/8/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn N
buộc Ủy ban nhân dân thị trấn N thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của
pháp luật (thực hiện xác nhận đúng nguồn gốc đất cho T, để T làm thủ tục
11
công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bà đã yêu cầu Ủy ban nhân dân
thị trấn N xác nhận).
2. Về án phí:
- Án phí hành chính thẩm: Buộc Trần Diễm T phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng). Trần Diễm T đã nộp tạm ứng án phí số tiền
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0007514 ngày 19/02/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí hành chính sơ thẩm.
- Án phí hành chính phúc thẩm: Buộc bà Trần Diễm T ông Nguyễn Trí N
cùng phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). T, ông N đã nộp
tạm ứng án phí phúc thẩm số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên
lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007838 ngày 05/9/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí hành
chính phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC tại TP . HCM; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND huyện Hồng Dân;
- Chi cục THADS huyện Hồng Dân;
- Các Đương sự;
- Tổ HCTP;
- Lưu: HSVA,THC.
Huỳnh Thị Kiều Anh
Tải về
Bản án số 01/2024/HC-PT Bản án số 01/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2024/HC-PT Bản án số 01/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất