Bản án số 01/2023/DS-ST ngày 23/02/2023 của TAND huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2023/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2023/DS-ST ngày 23/02/2023 của TAND huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Ba Tơ (TAND tỉnh Quảng Ngãi)
Số hiệu: 01/2023/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/02/2023
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: khong
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN BA TƠ Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NGÃI
Bản án số: 01/2023/DS-ST
Ngày: 23-02-2023
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất,
yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất
tranh chấp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Huy;
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phan Tấn Vũ;
2. Ông Trần Thanh Hoài.
- Thư phiên tòa: Ông Trương Công Bình- Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi tham gia
phiên tòa: Lê Thị Thúy Danh - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba xét xử
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 13/2021/TLST-DS ngày 11 tháng 10
năm 2021 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất
tranh chấp vbồi thường thiệt hại ngoài hợp đồngtheo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 06/2022/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 12 năm 2022, Thông báo thay đổi
thời gian xét xử phiên tòa dân sự số 10/TB-TA ngày 12 tháng 01 năm 2023, Thông
báo thời gian mở lại phiên tòa số 71/TB-TA ngày 15 tháng 02 năm 2023, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Thị G; địa chỉ: Thôn H, B, huyện B, tỉnh Quảng
Ngãi.
2. Bị đơn: Bà Lê Thị H; địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
2
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Phúc D; anh
Nguyễn Phúc T; chị Nguyễn Thị T; chị Nguyễn Thị Lệ T; cùng địa chỉ: Thôn H, xã
B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện hợp pháp của chị Nguyễn Thị Phúc D, anh Nguyễn Phúc T,
chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Lệ T: Thị G; địa chỉ: Thôn H, B,
huyện B, tỉnh Quảng Ngãi- người đại diện theo ủy quyền của người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan (Hợp đồng ủy quyền ngày 10 tháng 8 năm 2022)
(Bà G, bà H có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 05/7/2021, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày
26/8/2022, ngày 05/12/2022 trong quá trình tố tụng tại phiên tòa nguyên đơn,
đồng thời người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Hà Thị G trình bày:
Nguyên thửa đất một phần diện tích 48,75 m
2
hiện nay đang tranh chấp
với ThH nguồn gốc: khoảng trước năm 1950 ông Nguyễn C Trần
Thị H (cha mẹ chồng của G hiện nay đã chết) khai hoang một mảnh đất tại
thôn H, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi cha mẹ chồng bà G qua đời thì bà
G chồng ông Nguyễn Phúc T (hiện đã chết) tiếp tục quản , sử dụng mảnh
đất cha mẹ để lại (trước đây là thửa đất số 58, tờ bản đồ số 9, nay là thửa đất số 27,
102, tờ bản đồ số 31) trồng mì, lan, đậu...Đến năm 1996 gia đình kinh tế khó
khăn nên bà G vào miền nam làm ăn. Đến năm 1998 ông Nguyễn Phúc T
khai một số thửa đất như thửa số 74, 87, 88, 219, 469, 471, cùng tờ bản đồ số 9
nhưng không khai thửa đất số 58, tờ bản đồ số 9, tuy nhiên G và ông T vẫn
canh tác sử dụng ổn định không ai tranh chấp. Đến năm 2005 G H
trao đổi đất tạm thời khoảng 5-10 năm, bà G sử dụng đất ruộng của bà H, còn bà H
sử dụng thửa đất số 58 của G (hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng không viết
giấy tờ gì). Đến năm 2013 bà G kê khai thửa đất số 58 thành 02 thửa đất số 27, 102
làm đơn đề nghị quan thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Đến ngày 29/10/2014 hộ gia đình bà G được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với 02 thửa đất s27, 102, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè,
Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.
Đến năm 2016 bà G H thực hiện việc trả đất lại cho nhau. Sau đó, G
tiếp tục cho chị Phạm Thị C (con gái ruột H) thuê đất bán phê (hai bên chỉ
thỏa thuận bằng miệng không viết giấy tgì không thỏa thuận cho thuê bao
3
nhiêu năm vì chị C là cháu trong gia đình). Đến năm 2017 bà G lấy cây cau tự ươm
trồng gần ranh giới đất giữa thửa đất số 27 và thửa đất của bà Lê Thị H, bà G trồng
tổng cộng khoảng 21 cây cau, sau đó một số cây cau chết và còn lại 16 cây.
Đến tháng 3/2021 chị C đã hoàn trả lại đất cho G. Sau đó, G đỗ đất cải
tạo lại để trồng hoa màu thì khoảng cuối tháng 5/2021 bà Thị H lên chôn trụ
tông chặt 16 y cau trên diện tích đất của bà G đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Từ đó dẫn đến việc tranh chấp giữa hai bên.
Tại đơn khởi kiện ngày 05/7/2021 G yêu cầu Thị H phải trả lại cho
G diện tích đất 141,47m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc
Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tháo dỡ toàn btrụ tông trên
phần diện tích đất tranh chấp và buộc Lê Thị H phải bồi thường thiệt hại cho bà
G giá trị của 16 cây cau trên 04 năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu
hai trăm ngàn đồng).
Ngày 26/8/2022 bà G thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị H phải trả
lại cho bà G diện tích đất 53,2m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn
Hóc Kè, xã Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tháo dỡ 11 trụ tông trên
diện tích đất tranh chấp và buộc Lê Thị H phải bồi thường thiệt hại cho bà G giá
trị của 16 cây cau trên 04 năm tuổi với tổng số tiền là 3.200.000đ (Ba triệu hai
trăm ngàn đồng).
Ngày 05/12/2022 và tại phiên tòa bà G tiếp tục thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu
cầu bà Thị H phải bồi thường thiệt hại cho G giá trị của 16 cây cau trên 04
năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng) phải trả
lại cho bà G diện tích đất 48,75m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn
Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tháo dỡ 10 trụ tông
kích thước 12cm x 12cm x 1m70 trên diện tích đất tranh chấp, giới cận: Phía
Đông giáp: Đường Quốc lộ 24; phía y giáp: Thửa đất số 238, 10; phía Nam
giáp: Thửa đất số 9, 239; phía Bắc giáp: phần đất còn lại của thửa đất số 27. Ngoài
ra bà G không có yêu cầu nào khác.
G rút yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu H tháo dỡ 01 trụ tông
kích thước 12cm x 12cm x 1m70, trụ tông này không nằm trong thửa đất số
27 của nguyên đơn và UBND huyện Ba Tơ đã có Quyết định thu hồi.
Đối với khối lượng đất đồi pha lẫn sỏi đá tại diện tích đất tranh chấp bà G
không yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ.
* Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bà Lê Thị H trình bày:
Nguyên nguồn gốc của thửa đất số 9, 239, 238, cùng tờ bản đồ số 30, địa chỉ:
Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi trước đây một thửa
4
đất do cha mẹ chồng H ông Phạm L, Trần Thị C (hiện ông L, bà C đã
chết) khai hoang hay mua lại của ai H không rõ. Đến khoảng năm 1983 cha mẹ
chồng H để lại toàn bộ thửa đất (hiện nay 03 thửa đất 9, 238, 239) nêu trên
cho vợ chồng bà H quản lý, sử dụng trồng đậu, mì, bắp. Đến năm 1998 hộ gia đình
bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 468, tờ bản đồ số 9,
địa chỉ: Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Đến khoảng năm 2009 con
gái bà H sử dụng làm vườn ươm, đến năm 2013 vợ chồng bà H m thủ tục cấp đổi
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 468, tờ bản đồ số 9. Khi
dự án Vlap đo đạc không biết sao chia mảnh đất của vợ chồng H thành 03
thửa đất số 9, 238, 239, hiện tại bà H chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với thửa đất số 9, n lại 02 thửa đất số 238, 239 H chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bà H là người đang quản lý, sử dụng.
Vào năm 2018, H biết việc bà G trồng cây cau trên đất của H, s lượng
cụ thể bao nhiêu bà H không biết, lúc đó bà H nghĩ vì chỗ chị em bà con và vì bà G
đang cho con gái bà H thuê đất bán quán cà phê nên không nói gì. Đến khoảng đầu
năm 2021 bà G yêu cầu con gái bà H tháo dỡ quán trả lại đất thì bà H cùng con gái
đã thuê người tháo dỡ quán phê trả lại đất cho G. Đến khoảng tháng 4 năm
2021 H bức xúc G nhiều vấn đề nên H chặt 16 cây cau của G, đến
khoảng tháng 5/2021 bà H tiến hành chôn 11 trụ tông theo ranh giới trước
đây.
Nay G yêu cầu bà H phải bồi thường thiệt hại cho bà G giá trị của 16 cây
cau trên 04 năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng)
phải trả lại cho G diện tích đất 48,75m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31,
địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, tháo dỡ 10 trụ
tông kích thước 12cm x 12cm x 1m70 trên diện tích đất tranh chấp, giới
cận: Phía Đông giáp: Đường Quốc lộ 24; phía Tây giáp: Thửa đất số 238, 10; phía
Nam giáp: Thửa đất số 9, 239; phía Bắc giáp: phần đất còn lại của thửa đất số 27
thì H không đồng ý. Đối với khối lượng đất đồi pha lẫn sỏi đá tại diện tích đất
tranh chấp bà H không yêu cầu Tòa án xem xét, thẩm định tại chỗ.
H trình bày: Chính bà người tranh chấp diện tích đất 48,75m
2
tại thửa
đất số 27 với bà G và toàn bộ tài sản trên diện tích đất tranh chấp là của cá nhân bà
H, ngoài ra không có ai khác.
* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án
Thẩm phán bản đã tuân thủ đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân s, tuy
nhiên,vẫn một số sai sót sau: Ngày 05/12/2022 Tòa án ban hành Công văn yêu
cầu UBND xã Ba Động và UBND huyện Ba Tơ cung cấp tài liệu, chứng cứ, các cơ
5
quan chưa cung cấp tài liệu chứng cứ nhưng ngày 13/12/2022 Tòa án tổ chức phiên
họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ hòa giải, ngày 23/12/2022 ban
hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử là không đúng quy định, nhưng sau đó Tòa án
đã thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ và đã giao các tài liệu, chứng
cứ đã thu thập được cho các đương sự nên vẫn đảm bảo quyền lợi của các đương
sự.
Về quan hệ tranh chấp: Đề nghị xác định lại quan htranh chấp “Tranh
chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất tranh chấp về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồngtheo quy định tại khoản 6, 9, 14 Điều 26 Bộ luật
tố tụng dân sự.
Về xác định cách tham gia tố tụng: Đề nghị không đưa ông Phạm V tham
gia tố tụng với tư cách là bị đơn.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử
đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa thẩm
đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.
Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Nguyên đơn đã thực
hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn bà Lê Thị H
không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 6, khoản 9, 14 Điều 26, Điều 35, 39, 147,
157, 158, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
Điều 163, 164, 166, 169, 170, 584, 585, 586 và Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị
Hội đồng xét xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
buộc Thị H phải bồi thường thiệt hại cho bà G giá trị của 16 cây cau trên 04
năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng); buộc
Thị H phải trả lại cho G diện tích đất 48,75m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số
31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, giới
cận: Phía Đông giáp: Đường Quốc lộ 24; phía Tây giáp: Thửa đất số 238, 10; phía
Nam giáp: Thửa đất số 9, 239; phía Bắc giáp: phần đất còn lại của thửa đất số 27;
buộc Lê Thị H phải tháo dỡ 10 trụ bê tông kích thước 12cm x 12cm x 1,70m
trên diện tích 48,75m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, xã
Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Đình chỉ phần yêu cầu của nguyên đơn
đã rút yêu cầu bị đơn tháo dỡ 01 trụ bê tông nằm trong diện tích đất Ủy ban nhân
dân huyện Ba Tơ đã thu hồi.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ án phí: Buộc đương sự phải chịu
theo quy định của pháp luật.
6
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được xem xét
tại phiêna và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa Tòa án nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Diện tích đất 48,75m
2
tranh chấp thuộc
thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Căn cứ vào điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn Thị G thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.
[1.2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Quá trình thụ lý vụ án Tòa án xác định
quan hệ tranh chấp Tranh chấp quyền sử dụng đất tranh chấp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng”. Tuy nhiên, theo đơn khởi kiện, nguyên đơn còn yêu cầu
Tòa án buộc Lê Thị H phải tháo dỡ toàn bộ trụ tông trên phần diện tích đất
tranh chấp. Do đó, Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ tranh chấp “Tranh chấp
quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất tranh chấp về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồngtheo quy định tại khoản 6, 9, khoản 14 Điều 26 Bộ luật
tố tụng dân sự.
[1.3] Về phạm vi khởi kiện: Theo đơn khởi kiện ngày 05/7/2021 bà G u
cầu bà H phải trả lại cho bà G diện tích đất 141,47m
2
, tại thửa đất số 27, tờ bản đồ
số 31, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 26/8/2022 bà G u cầu bà H phải trả
lại cho bà G diện tích đất 53,2m
2
tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31. Tuy nhiên, tại
đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 05/12/2022, phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ tại phiên a G chỉ yêu cầu Thị H phải
tháo dỡ 10 trụ bê tông kích thước (12cm x 12cm x 1,70m) trả lại cho G diện
tích đất 48,75m
2
tại thửa đất s27, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba
Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi phải bồi thường thiệt hại cho G giá trị
của 16 cây cau trên 04 năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm
ngàn đồng); bà G rút yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu H tháo dỡ 01 trụ
tông.
Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà G không vượt quá phạm vi yêu
cầu khởi kiện ban đầu; căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 244 BLTTDS Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[1.4] Về xác định tư cách tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
đưa ông Phạm V tham gia tố tụng với cách bị đơn. Tuy nhiên, xét thấy ông
7
Phạm V không có quyền lợinghĩa vụ trong vụ án theo quy định tại Điều 68 Bộ
luật tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử loại tư cách tham gia tố tụng là bị đơn của
ông Phạm V.
[1.5] Đối với anh Văn H, chị Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị C quá trình
giải quyết vụ án những người này đnghị Tòa án không đưa họ vào tham gia tố
tụng với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. đó, Tòa án không
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2.] Về nội dung vụ án: Căn cứ tài liệu, chứng cứ trong hvụ án cũng n
lời khai của các đương sự nhận thấy:
[2.1] Nguyên nguồn gốc thửa đất s27, 102, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn
Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi của ông Nguyễn C
Trần Thị H cha mẹ ruột của ông Nguyễn Phúc T, sau khi ông C H chết thì
ông T Thị G quản lý, sử dụng trồng mì, lan, đậu....Theo bản đồ đo vẽ
năm 1998 tại Ba Động thửa đất số 27, 102, tờ bản đồ số 31 hiện nay trước đây
là thửa đất số 58, tờ bản đồ số 9. Đến năm 2013 hộ bà Hà Thị G kê khai thửa đất số
58 thành 02 thửa đất số 27, 102 đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ( GCNQSD đất). Ngày 29/10/2014 hộ Thị G được Ủy ban nhân
dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi cấp giấy CNQSD đất đối với thửa đất số 27, tờ
bản đồ s31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi,
diện tích 622 m
2
thửa đất s102, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba
Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, diện tích 383,7m
2
.
[2.2] Liền kề với thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31 thửa đất số 9, 238, 239, tờ
bản đồ số 30, nguyên nguồn gốc của 03 thửa đất nêu trên của cha mẹ chồng
H ông Phạm L Trần Thị C (hiện đã chết) khai hoang hay mua lại của ai H
không rõ. Đến khoảng năm 1983 cha mẹ chồng để lại cho vchồng bà H toàn bộ
mảnh đất (gồm 03 thửa đất 9, 238, 239) quản lý, sử dụng trồng đậu, mì, bắp....
Theo bản đồ đo vẽ năm 1998 tại Ba Động thửa đất số 9, 238, 239, tờ bản đồ số
30 hiện nay trước đây thửa đất số 468A, tbản đồ số 9. Năm 1998 hộ gia đình
bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 468 (468A),
tờ bản đồ số 9, địa chỉ: Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, diện tích
1.630m2. Đến năm 2013 H đơn đề nghị cấp đổi lại GCNQSD đất được
Ủy ban nhân dân huyện Ba cấp lại (cấp đổi) GCNQSD đất thành thửa đất số 9,
tờ bản đồ số 30, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng
Ngãi, diện tích 1.671,8m
2
(tăng 41,8m
2
so với GCNQSD đất lần đầu được cấp).
[2.3] t yêu cầu của G u cầu H phải trả diện tích đất 48,75m
2
tại
thửa đất số 27, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Ngày 04/01/2022 Tòa án nhân dân huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi đã tiến
8
hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với: Thửa đất số 27, 102 cùng tờ bản đồ số 31,
địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi của Thị
G; diện tích đất tranh chấp và toàn bộ tài sản trên đất tranh chấp.
Đối với thửa đất số 9, tờ bản đồ số 30, địa chỉ: thôn Hóc Kè, Ba Động,
huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi Thị H không hợp tác, không chỉ ranh giới
thửa đất cho đơn vị đo đạc để xác định nên đơn vị đo đạc không đo được thửa đất
số 9, tờ bản đồ số 30.
Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/01/2022 như sau: Tổng diện tích
của thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba
Tơ, tỉnh Quảng Ngãi đo vẽ theo sự chỉ dẫn của nguyên đơn 625,7m
2
; diện tích
các bên tranh chấp là 53,2m
2
, giới cận như sau: Phía Đông giáp: Đường Quốc lộ 24
chiều dài 0.89m; phía Tây giáp: Thửa đất s 238, 10 chiều dài (16.77 +
2.31)m; phía Nam giáp: Thửa đất số 9, 239 chiều dài (10.53 + 17.83)m; phía
Bắc giáp: Thửa đất số 27 chiều dài (3.81 + 3.99 + 4.64 + 4.08 + 4.48 + 3.65 +
3.28 + 1.94 + 4.54 + 4.51 + 6.64)m.
[2.3.1] Ngày 28/11/2022 Tòa án nhân dân huyện Ba văn bản đề nghị
Văn phòng đăng đất đai tỉnh Quảng Ngãi- chi nhánh huyện Ba đối chiếu
(chồng ghép) bản đồ đo đạc thực tế theo sự chỉ dẫn của G tại thửa đất số 27, tờ
bản đồ số 31 với thửa đất số 27, tờ bản đsố 31 Thị G được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ địa chính đo vẽ năm 2013, kết quả trích lục
bản đồ địa chính của Văn phòng đăng đất đai tỉnh Quảng Ngãi- chi nhánh
huyện Ba như sau: Trong diện tích 53,2m
2
Thị G và Thị H tranh
chấp 48,75m
2
đất thuộc thửa đất số 27 bà Thị G đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; còn lại 4,45 m
2
, trong đó: 4m
2
thuộc thửa đất số 9
thửa đất số 239 của H; 0,05 m
2
đất đã thu hồi làm đường QL số 24; 0,4 m
2
nằm
ngoài thửa đất số 27 của bà G.
Như vậy, theo kết quả trên thì Thị H đã chôn 10 trụ tông lấn sang
thửa đất số 27 của G 48,75m
2
, còn diện tích đất 4,45m2 (4,0m2 + 0,05m2 +
0,4m2) và 01 trụ bê tông không thuộc thửa đất số 27.
[2.4] Về trình tthủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa
đất số 27, tờ bản đồ số 31 cho hộ Thị G: Qua kiểm tra hồ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, làm việc với chính quyền địa phương Ba Động và Ủy
ban nhân dân huyện Ba Tơ, Hội đồng xét xử nhận thấy trình tự, thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Hà Thị G lập năm 2013 thực hiện đầy đủ,
đúng trình tự theo quy định của luật đất đai năm 2003.
[2.5] Thị H cho rằng H chôn các trtông theo ranh giới trước
đây giữa thửa đất của G. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai ngày
9
15/8/2022 H xác nhận H người ký tên trong “bản tả ranh giới, mốc
giới thửa đất ngày 07/4/2013”, như vậy, chính H người đã xác nhận ranh
giới, mốc giới với thửa đất số 27 của bà G. Vì vậy, lời trình bày của H không
sở. Mặt khác, Tòa án đã thông báo yêu cầu H cung cấp các tài liệu,
chứng cứ chứng minh diện tích đất tranh chấp của mình nhưng H không
tài liệu, chứng cứ gì chứng minh.
[2.6] Xét yêu cầu của bà G yêu cầu H phải bồi thường thiệt hại cho G
giá trị của 16 cây cau trên 04 năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai
trăm ngàn đồng), Hội đồng xét xnhận thấy: Tại biên bản kiểm tra thực địa ngày
24/6/2021 kèm đồ vị trí thửa đất của Ủy ban nhân dân xã Ba Động, huyện Ba
thể hiện 16 gốc cây cau đã bị chặt phá biên bản lấy lời khai ngày
07/7/2022, tại phiên tòa H xác nhận “vì bức xúc bà G nhiều vấn đề nên H
tiến hành chặt 16 cây cau của G; tại biên bản thỏa thuận giá trtài sản ngày
13/7/2022 G H cũng thống nhất giá trị của 16 cây cau 3.200.000đ.
vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà G là có cơ sở.
Tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “Đương sự nghĩa vụ
đưa ra đủ chứng cứ đchứng minh không đưa ra được chứng cứ hoặc không
đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã
được thu thập trong hồ sơ vụ án”.
[2.7] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định diện
tích đất 48,75m
2
các bên tranh chấp thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31, địa
chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi Ủy ban nhân
dân huyện Ba đã cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho h bà Thị G
thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của hộ bà Thị G, chị Nguyễn Thị
Phúc D, anh Nguyễn Phúc T, chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Lệ T.Việc bà
Thị H tý chặt 16 cây cau, chôn 10 trụ bê tông chiếm diện tích đất 48,75m
2
tại
thửa đất số 27, tờ bản đồ số 31 là hành vi chiếm đất trái phép, xâm phạm tài sản
của hộ Thị G. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc Thị H phải
bồi thường thiệt hại cho G giá trị của 16 cây cau trên 04 m tuổi với tổng số
tiền là 3.200.000đ và phải tháo dỡ 10 trụ bê tông để trả lại diện tích đất 48,75m
2
tại
thửa đất số 27, tờ bản đsố 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ,
tỉnh Quảng Ngãi cho hộ bà Thị G, chị Nguyễn Thị Phúc D, anh Nguyễn Phúc
T, chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Lệ T quản lý, sử dụng.
[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ngày 03/12/2021, nguyên đơn đã
nộp tạm ứng số tiền 15.000.000 đồng, Tòa án đã chi phí cho việc xem xét, thẩm
định tại chỗ với số tiền 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) và đã hoàn trả cho nguyên
đơn số tiền dư 9.000.000đ (Chín triệu đồng).
10
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên H phải
trả lại tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ cho bà G với số tiền 6.000.000đ (Sáu
triệu đồng).
[4] Về án phí:
[4.1] Do yêu cầu của nguyên đơn Thị G được chấp nhận toàn bộ nên
nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[4.2] Bị đơn bà Thị H phải chịu án phí dân sự thẩm đối với tranh chấp
bồi thường thiệt hại là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm đối
với tranh chấp quyền sử dụng đất là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 6, 9 và khoản 14 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147,
157, 158, 235, 244, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166,
Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 163, 164, 166, 169, 170, 584, 585, 586
Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015, khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị G.
- Buộc bà Lê Thị H phải tháo dỡ 10 trụ bê tông kích thước (12cm x 12cm x
1,70m) trả lại cho Thị G, chị Nguyễn Thị Phúc D, anh Nguyễn Phúc T, chị
Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Lệ T diện tích đất 48,75m
2
tại thửa đất số 27, tờ
bản đồ số 31, địa chỉ: Thôn Hóc Kè, Ba Động, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi;
có giới cận: Phía Đông giáp đường Quốc l24; phía Tây giáp thửa đất số 238, 10;
phía Nam giáp thửa đất s9, 239; phía Bắc giáp phần đất còn lại của thửa đất số
27.
(Có sơ đồ trích đo kèm theo bản án đồ này một bộ phận không thể
tách rời bản án dân sự sơ thẩm).
- Đình chỉ xét xđối với yêu cầu khởi kiện của Thị G về việc yêu cầu
bà Lê Thị H tháo dỡ 01 trụ bê tông kích thước (12cm x 12cm x 1,70m) nằm trên
diện tích đất đã được UBND huyện Ba thu hồi theo Quyết định số 588/QĐ-
UBND ngày 06/12/2020.
11
- Buộc Thị H phải bồi thường thiệt hại cho Thị G giá trị của 16
cây cau trên 04 năm tuổi với tổng số tiền 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn
đồng).
2. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Buộc Thị H phải hoàn trả lại
tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ cho Thị G số tiền 6.000.00(Sáu
triệu đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí:
- Thị H phải chịu án phí dân sự thẩm đối với tranh chấp bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) và án phí dân sự
thẩm đối với tranh chấp quyền sử dụng đất là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
- Bà Hà Thị G không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Hà Thị
G số tiền tạm ứng án phí đã nộp 600.000đồng (Sáu trăm ngàn đồng) theo biên lai
thu tiền số 0001005 ngày 11/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba
Tơ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án
dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự./.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 23/02/2023), đương sự vắng mặt tại phiên
tòa hoặc không mặt khi tuyên án mà có do chính đáng thì thời hạn kháng cáo
tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp
luật.
Nơi nhận:
- TAND tnh Qung Ngãi;
- VKSND huyn Ba Tơ;
- Chi cục THADS huyn Ba Tơ;
- Đương s;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
12
- Lưu hồ sơ v án.
Nguyễn Văn Huy
Tải về
Bản án số 01/2023/DS-ST Bản án số 01/2023/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất