Quyết định số 04/2025/QĐST-LĐ ngày 25/04/2025 của TAND TP. Hải Dương, tỉnh Hải Dương về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Quyết định 04/2025/QĐST-LĐ

Tên Quyết định: Quyết định số 04/2025/QĐST-LĐ ngày 25/04/2025 của TAND TP. Hải Dương, tỉnh Hải Dương về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Dương (TAND tỉnh Hải Dương)
Số hiệu: 04/2025/QĐST-LĐ
Loại văn bản: Quyết định
Ngày ban hành: 25/04/2025
Lĩnh vực: Lao động
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tuyên bố hợp đồng lao động giữa chị Trương Thị H và công ty TNHH N vô hiệu
Tóm tắt Quyết định

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG
TỈNH HẢI DƯƠNG
–––––––––––––––
Số: 04/2025/QĐST -
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––––––
TP Hải Dương, ngày 25 tháng 4 năm 2025
QUYẾT ĐỊNH
SƠ THẨM GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
V/v: Tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG - TỈNH HẢI DƯƠNG
Thành phần giải quyết việc dân sự gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên họp: Bà Phạm Thị Thu
Thư phiên họp: Nguyễn Hoàng Phương - Thư Tòa án nhân dân
thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
tham gia phiên họp: Ông Phạm Minh Việt - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương mở phiên họp thẩm công khai giải quyết việc dân sự
thụ số 07/2025/TLST-VDS ngày 10 tháng 4 năm 2025 về việc: Tuyên bố hợp
đồng lao động hiệu theo Quyết định mở phiên họp thẩm giải quyết việc dân
sự số 24/2025/QĐST - VDS ngày 18/4/2025, gồm những người tham gia tố tụng
sau đây:
- Người yêu cầu: Chị Trương Thị H, sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn T, xã V,
huyện N, tỉnh Hải Dương. (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Trương Thị H1, sinh năm 1996; Địa chỉ: Thôn K, xã A, huyện N, tỉnh
Hải Dương. (Có mặt).
+ Công ty TNHH N
Địa chỉ: XN 2-3, KCN Đ mở rộng, phường T, thành ph Hải Dương,
tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hong Soon T.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Ngô Thị K, sinh năm 1990
Địa chỉ: Số F, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. (Có mặt).
+ Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương.
Địa chỉ: Số G đường T, phường B, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
(Có mặt).
NỘI DUNG VIỆC DÂN SỰ:
1.Tại đơn yêu cầu trong quá trình giải quyết việc dân sự, người yêu
cầu chị Trương Thị H trình bày:
Chị chgái của chị Trương Thị H1, sinh năm 1996 (Địa chỉ: Thôn K,
A, huyện N, tỉnh Hải Dương). Đầu năm 2012 khi chị đang làm công nhân Công
ty TNHH C, số sổ bảo hiểm 3010008280 thì em gái chị là chị H1 có mượn của chị
chứng minh nhân dân của chị để làm hồ xin việc. Do không hiểu biết pháp luật
2
nên chị đã cho chị H1 mượn chứng minh nhân dân của chị để chị H1 đi làm hồ
xin việc. Sau đó chị H1 đã xin vào làm việc vào Công ty TNHH N địa chỉ tại:
XN 2 - 3, KCN Đ mở rộng, phường T, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
và được Công ty TNHH N kết hợp đồng lao động, hiện nay hợp đồng lao động
do thời gian đã lâu nên chị H1 đã làm mất không còn để xuất trình cho Tòa án, khi
làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu chị đã đến
Công ty TNHH N để xin lại hợp đồng nhưng chỉ xin được giấy xác nhận công tác
và Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động. Chị H1 làm việc tại Công ty TNHH N
từ tháng 3 năm 2012 đến hết tháng 2 năm 2015 thì nghỉ việc. Khi làm việc tại
Công ty TNHH N chị H1 đã được Công ty đóng bảo hiểm hội, bảo hiểm thất
nghiệp theo quy định của pháp luật từ tháng 4/2012 đến tháng 02/2015 đã được
quan bảo hiểm xã hội làm thủ tục cấp mã số sổ bảo hiểm 3012025438 mang
tên của chị Trương Thị H, trong khi thực tế chị không làm việc tại Công ty
TNHH N thời gian nào. Đến tháng 3 năm 2015 thì chị H1 xin nghỉ việc tại Công
ty TNHH N. Trong cùng một thời gian từ tháng 4/2012 đến tháng 2/2015 cùng
một con người tên Trương Thị H trên hệ thống bảo hiểm hội thì chị H đang
tham gia bảo hiểm bằng hai mã số bảo hiểm là 3010008280 và 3012025438.
Tháng 01 năm 2015 chị H làm việc tại Công ty TNHH M, chị tham gia
đóng bảo hiểm thì người làm bên bộ phận bảo hiểm của Công ty nói với chị
hai số bảo hiểm, hoặc đi hủy một số bảo hiểm hoặc thanh toán bảo
hiểm 01 lần. Khi nghe như vậy chị đã chọn thủ tục thanh toán bảo hiểm 01 lần
tiền bảo hiểm thất nghiệp đối với số tiền bảo hiểm do Công ty TNHH N đóng
số sổ bảo hiểm là 3012025438 mang tên của chị là Trương Thị H nhưng thực tế do
chị H1 làm việc. Số tiền bảo hiểm được hưởng 01 lần bảo hiểm thất nghiệp tại
Công ty TNHH N 21.823.137đ, số tiền này chị người đi làm thủ tục t cho
chị H1 và đưa số tiền trên cho chị H1.
Nay chị nhận thức việc chị H1 mượn chứng minh nhân dân của chị để
kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH N là gian dối, vi phạm nguyên tắc trung
thực khi kết hợp đồng lao động. Do vậy, chị đề nghị Tòa án nhân dân thành
phố Hải Dương tuyên bố: Hợp đồng lao động đã ký kết giữa Công ty TNHH N với
Trương Thị H (do chị Trương ThH1 ký) hiệu giải quyết hậu quả của
Hợp đồng lao động hiệu, số tiền bảo hiểm tại Công ty TNHH N chị đã làm thủ
tục rút bảo hiểm hội một lần đưa cho chị H1, nếu bảo hiểm hội tỉnh Hải
Dương yêu cầu trả lại thì chị H1 sẽ có trách nhiệm trả lại cho bảo hiểm xã hội tỉnh
Hải Dương. Chị nhất trí hoàn trả số tiền thoái thu bảo hiểm cho Công ty TNHH N
theo tính toán của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trương Thị H1 trình bày:
Chị em gái của chị Trương Thị H. Do không hiểu biết pháp luật nên đầu
năm 2012 chị nhu cầu xin việc vào công ty để đi làm nhưng chưa đủ tuổi nên
khi đó chị mượn chứng minh thư nhân dân của chị gái Trương Thị H, số
chứng minh nhân dân 142602114 để đi làm bộ hồ sơ xin việc. Sau khi mượn được
chứng minh nhân dân của chị H, chị nộp hồ xin việc mang tên chị Trương
Thị H đến Công ty TNHH N có địa chỉ tại KCN Đ, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương. Sau khi xem xét hồ sơ, Công ty TNHH N đã ký hợp đồng lao động với chị
theo đúng quy định của pháp luật. Hiện nay hợp đồng lao động do thời gian đã lâu
3
nên chị H1 đã làm mất không còn để xuất trình cho Tòa án. Việc Công ty TNHH
N ký hợp đồng với chị H1, chị cũng không nói cho Công ty biết việc chị mượn hồ
của chị H nên công ty không biết. Sau khi hợp đồng, Công ty đã tiến hành
đóng Bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp cho chị theo tên của chị Trương Thị
H theo quy định của pháp luật, đã được quan bảo hiểm hội làm thủ tục cấp
số sổ bảo hiểm 3012025438 mang tên của chị Trương Thị H. Thời gian
Công ty TNHH N đóng bảo hiểm cho chị H1 từ tháng 4 năm 2012 đến tháng 2
năm 2015. Tháng 03/2015 chị đứng tên của chị H xin nghỉ việc tại ng ty TNHH
N. Đến năm 2015 khi đủ tuổi chị làm chứng minh nhân dân lấy tên của chị xin
vào làm việc tại Công ty TNHH M1 được công ty đóng bảo hiểm có mã sổ bảo
hiểm riêng đứng tên chị.
Sau khi chị xin nghỉ việc tại Công ty TNHH N thì đến năm 2016 chị H đã đi
làm thủ tục thanh toán bảo hiểm một lần cho chị đối với số tiền bảo hiểm thời gian
chị làm việc tại Công ty TNHH N được tổng số tiền 21.823.137đ, số tiền trên
chị H đã đưa lại cho chị và chị đã chi tiêu cá nhân hết.
Chị H1 xác định thời điểm chị đứng tên chị H hợp đồng làm việc tại
Công ty TNHH N thì chị H đang làm việc tại một công ty khác. Cho đến nay, chị
nhận thấy việc mượn chứng minh thư nhân dân của chị H để làm hồ sơ đi xin việc
và đứng tên chị H là không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi
của chị H. Chị quan điểm đối với yêu cầu giải quyết việc lao động của chị H
như sau: Nhất trí với quan điểm của chị H, đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố hợp
đồng lao động giữa Công ty TNHH N1 chị Trương Thị H (do chị H1 đứng tên
ký) là vô hiệu theo quy định pháp luật và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Chị nhất trí trả lại cho Bảo hiểm hội tỉnh Hải Dương stiền hưởng bảo hiểm
một lần và tiền trợ cấp thất nghiệp đã rút và cũng nhất trí hoàn trả số tiền thoái thu
bảo hiểm cho Công ty TNHH N theo tính toán của Bảo hiểm hội tỉnh Hải
Dương.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH N trình bày:
Ngày 20/3/2012 chị tên trong hồ Trương Thị H bắt đầu kết hợp
đồng thử việc với Công ty TNHH N 06 ngày (từ ngày 20/3/2012 tới ngày
26/3/2012). Sau khi hết thời gian thử việc, ngày 27/3/2012, Công ty kết hợp
đồng lao động xác định thời hạn 01 năm với chị H (từ ngày 27/3/2012 tới ngày
26/3/2012). Kết thúc hợp đồng xác định thời hạn số 1, Công ty tiếp tục thêm
với chị Trương Thị H hợp đồng xác định thời hạn số hợp đồng 3 22
01967/4/HĐ ngày 26/3/2014. Do thời gian đã lâu, phía công ty quy định trong
thời hạn 05 năm sẽ hủy hsơ, vậy Công ty không còn hợp đồng để giao nộp
cho Tòa án.
Căn cứ vào các hợp đồng lao động công ty kết với chị H, công việc
của chị H là công nhân vận hành máy may công nghiệp. Công ty Đ, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế cho chị H từ tháng 4/2012 đến tháng 2/2015 theo mức lương
bản công ty người lao động đã kết. Đến ngày 03/3/2015 chị Trương
Thị H chấm dứt Hợp đồng lao động với Công ty vì lý do cá nhân. Tại thời điểm ký
kết hợp đồng, phía công ty kết hoàn toàn tự nguyện, trung thực, công ty không
biết người trực tiếp kết hợp đồng không phải chị Trương Thị H, sinh năm
1991; Địa chỉ: H, N, Hải Dương mà là chị Trương Thị H1. Tại thời điểm chấm dứt
4
hợp đồng lao động với chị H, Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán các
chế độ cho chị H, không còn vướng mắc gì. Đối với yêu cầu của chị Trương Thị H
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật tuyên bố hợp đồng lao động
giữ công ty chị H (do chị H1 ký) hiệu. Về số tiền bảo hiểm Công ty đã
đóng cho người lao động lấy tên Trương Thị H từ tháng 4/2012 đến tháng 2/2015
đề nghị chị H1 người trực tiếp được sử dụng số tiền đó phải trả lại bảo hiểm
hội tỉnh Hải Dương. Công ty N2 với số tiền BHXH tỉnh Hải Dương thoái thu theo
tính toán của Bảo hiểm xã hội thời gian đóng trùng và hoàn trả cho công ty.
4. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm hội tỉnh Hải
Dương trình bày:
Căn cứ vào dữ liệu quản của quan Bảo hiểm hội, Bảo hiểm hội
tỉnh H cung cấp quá trình tham gia BHXH, BHYT, BHTN giải quyết chế đ
BHXH một lần, trợ cấp thất nghiệp của bà Trương Thị H, sinh ngày 27/6/1991, tại
hai mã số BHXH là: 3010008280 và 3012025438 cụ thể như sau:
- Số sổ 3012025438: quá trình tham gia từ tháng 4/2012 đến tháng
2/2015 Tại Công ty TNHH N; đã giải quyết chế độ bảo hiểm một lần tại BHXH
huyện N ngày 19/4/2016; Đã giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp theo số
4861/QĐ - TBXH ngày 20/7/2015.
- Số sổ 3010008280: quá trình tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng
01/2010 5/2012 tại Công ty TNHH C; đã giải quyết chế độ bảo hiểm một lần tại
BHXH huyện N ngày 17/8/2013; Đã giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp theo QĐ
số 3225/QĐ - TBXH ngày 30/7/2012. Từ tháng 01/2015 - 8/2023 tại Công ty
TNHH H2: Hiện đang bảo lưu thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian
tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo QĐ số 14896/QĐ – TBXH ngày 13/11/2023.
Quan điểm của BHXH tỉnh Hải Dương: Đề nghị Tòa án n cứ đúng quy
định của pháp luật để giải quyết theo thẩm quyền, đồng thời yêu cầu Trương
Thị H1 thực hiện nộp lại toàn bộ số tiền đã hưởng trợ cấp một lần, trợ cấp thất
nghiệp sai đối tượng. Sau khi có kết luận của Tòa án, căn cứ chức năng, nhiệm vụ
tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ - BNN cho người
lao động, BHXH tỉnh Hải Dương sẽ thực hiện theo đúng quy định.
Tại phiên họp: Người yêu cầu và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ
nguyên quan điểm đã trình bày.
Người đại diện theo ủy quyền của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương xác định
tổng số tiền bảo hiểm Công ty TNHH N đóng cho người lao động tên Trương Thị
H ttháng 4/2012 đến tháng 2/2015 25.927.403đ. Số tiền chH rút bảo hiểm
một lần cho chị H1 15.808.254 tiền trợ cấp thất nghiệp 03 tháng
6.014.883đ. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương xác định Thẩm
phán, thư phiên họp, các đương sự đã tuân theo chấp hành đúng quy định
của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết việc dân sự. Đề nghị Tòa án
nhân dân thành phố Hải Dương: Căn cứ vào khoản 1 Điều 33, điểm d khoản 2
Điều 35, khoản 2 Điều 39, Điều 149, 367, 370, 371, 372, 401, 402 Bộ luật tố tụng
dân sự; Điều 122, 127, 132 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 29 Bộ luật lao động
năm 1994; Điều 52 Bộ luật lao động 2012; Điều 15, 16, 50, 51 Bộ luật lao động
5
năm 2019; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội.
Chấp nhận yêu cầu của chị Trương Thị H: Tuyên bố các hợp đồng lao động
giữa người lao động tên Trương Thị H Công ty TNHH N hiệu. Hoàn trả
cho Công ty TNHH N toàn bộ số tiền bảo hiểm đã đóng cho người lao động đứng
tên Trương Thị H từ tháng 4/2012 đến tháng 2/2015 theo quy trình thoái thu của
Bảo hiểm xã hội. Chị Trương Thị H1 phải hoàn trả lại cho Bảo hiểm hội tỉnh
Hải Dương: Số tiền hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần đối với sổ bảo hiểm xã
hội số 3012025438 theo số 4861/QĐ TBXH ngày 20/7/2015 do Bảo hiểm
hội huyện N chi trả là 15.808.254đ số tiền trợ cấp thất nghiệp theo Quyết
định số 4861/QĐ - LĐTBXH ngày 21/7/2015 tổng 03 tháng 6.014.883đ. Tổng
số tiền chị H1 phải hoàn trả lại bảo hiểm hội tỉnh Hải Dương 21.823.137đ.
Về lệ phí: Buộc chị Trương Thị H phải chịu lệ phí giải quyết việc dân sự theo quy
định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ việc dân sự được
thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của các đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên
họp, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về thẩm quyền giải quyết: Công ty TNHH N có tr s tại Lô đất XN 2 - 3,
KCN Đ mở rộng, phường T, thành phố Hải Dương nên thuộc thm quyn gii
quyết của TAND thành phố Hải Dương theo quy định tại điểm v khoản 2 Điều 39
B lut t tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động đã ký giữa Công ty TNHH N
với chị Trương Thị H (do chị Trương Thị H1 ký) là vô hiệu:
Quá trình giải quyết việc lao động mặc dù người yêu cầu và những người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan không xuất trình được hợp đồng lao động ký kết giữa
chị H (do chị H1 ký) với Công ty TNHH N vì thời gian đã lâu, phía công ty có quy
định 05 năm là hủy hợp đồng mà chỉ xuất trình cho Tòa án giấy xác nhận công tác
Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động. Tuy nhiên, căn cứ lời khai chị chị H,
chị H1, lời khai của người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH N và cung
cấp của Bảo hiểm hội tỉnh Hải Dương về quá trình tham gia bảo hiểm của chị
Trương Thị H sở xác định Công ty TNHH N kết Hợp đồng lao động
với chị Trương Thị H nhưng do chị Trương Thị H1 ký và chị H1 là người trực tiếp
làm việc tại Công ty TNHH N. Việc chị H1 mượn hồ sơ tư pháp của chị H làm hồ
sơ xin việc và đứng tên chị H để giao kết hợp đồng lao động với Công ty TNHH N
giả mạo khi giao kết hợp đồng. vậy yêu cầu của chị H đề nghị Tòa án tuyên
bố Hợp đồng lao động giữa người lao động tên Trương Thị H (do chị H1 ký)
Công ty TNHH N vô hiệu căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên
cần được chấp nhận.
[2.2]. Về hậu quả của hợp đồng lao động vô hiệu:
Quá trình chị H1 làm việc tại Công ty TNHH N, Công ty đã đóng bảo hiểm
hội cho chị H1 (mượn tên chị H) từ tháng 4/2012 đến tháng 2/2015 theo số s
6
bảo hiểm là 3012025438. Căn cứ vào tài liệu ghi quá trình đóng BHXH, BHTN
quan điểm của Bảo hiểm xã hội tỉnh Hải Dương có cơ sở xác định tổng số tiền bảo
hiểm Công ty TNHH N đã đóng cho chị H1 (đứng tên chị H) trong khoảng thời
gian từ tháng 4/2012 đến tháng 2/2015 25.927.403đ. Các đương sự đều thống
nhất hoàn trả số tiền thoái thu bảo hiểm hội trên cho Công ty TNHH N. vậy
cần phải hoàn trả cho Công ty TNHH N số tiền 25.927.403đ theo quy trình thoái
thu của Bảo hiểm xã hội.
Sau khi chị H1 nghỉ việc tại Công ty TNHH N, chị H đã làm hồ sơ giải quyết
thanh toán bảo hiểm một lần theo Quyết định số 07001/QĐ - BHXH ngày
19/4/2016 do Bảo hiểm hội huyện N giải quyết của sổ bảo hiểm 3012025438,
số tiền được thanh toán 15.808.254 đồng số tiền trợ cấp thất nghiệp theo
Quyết định số 4861/QĐ - LĐTBXH ngày 21/7/2015 03 tháng, mức trợ cấp thất
nghiệp hàng tháng 2.004.961đ, tổng tiền trợ cấp thất nghiệp 6.014.883đ. Đối
với số tiền này, chị H đã đưa cho chị H1 sử dụng toàn bộ, các bên đều thỏa thuận
thống nhất chị H1 hoàn trả cho Bảo hiểm hội tỉnh Hải Dương tự nguyện,
đúng pháp luật nên được Tòa án chấp nhận
[3]. Về lệ phí: Chị Trương Thị H phải chịu lệ phí thẩm việc dân sự theo
quy định.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 33, điểm d khoản 2 Điều 35, khoản 2 Điều 39,
Điều 149, 367, 370, 371, 372, 401, 402 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, 127, 132
Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 29 Bộ luật lao động năm 1994; Điều 52 Bluật
lao động 2012; Điều 15, 16, 50, 51 Bộ luật lao động năm 2019; Luật phí, lphí;
Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội.
1. Chấp nhận đơn yêu cầu của chị Trương Thị H
Tuyên bố hợp đồng lao động ký giữa người sử dụng lao động Công ty TNHH
N với người lao động chị Trương Thị H (do chị Trương Thị H1 hợp đồng)
vô hiệu toàn bộ.
2. Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu:
- Hoàn trả cho Công ty TNHH N tổng số tiền bảo hiểm đã đóng cho chị
Trương Thị H1 (đứng tên Trương Thị H) từ tháng 4/2012 đến hết tháng 2/2015
25.927.403đ (Hai mươi lăm triệu chín trăm hai mươi bảy ngàn bốn trăm linh ba
đồng) theo quy trình thoái thu của Bảo hiểm xã hội.
- Chị Trương Thị H1 phải hoàn trả lại cho Bảo hiểm hội tỉnh Hải Dương:
Số tiền hưởng chế độ bảo hiểm hội một lần đối với sổ bảo hiểm hội số
3012025438 theo Quyết định số 07001/QĐ - BHXH ngày 19/4/2016 do Bảo hiểm
xã hội huyện N chi trả là 15.808.254 đồng (Mười lăm triệu tám trăm linh tám ngàn
hai trăm năm mươi đồng) và số tiền trợ cấp thất nghiệp theo Quyết định số
4861/QĐ - LĐTBXH ngày 21/7/2015 tổng 03 tháng 6.014.883đ. Tổng số tiền
chị H1 phải hoàn trả lại bảo hiểm hội tỉnh Hải Dương 21.823.13 (Hai
mươi mốt triệu tám trăm hai mươi ba ngàn một trăm ba bảy đồng).
3. Lệ phí thẩm giải quyết việc dân sự: Chị Trương Thị H phải chịu
300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền lệ phí việc dân sự sơ thẩm được trừ vào số tiền
300.000 đồng đã nộp tạm ứng l phí theo biên lai thu tiền số 0001316 ngày
7
10/4/2025 tại Chi cục thi hành án dân sthành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Chị H đã nộp đủ lệ phí sơ thẩm việc dân sự.
4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự được quyền kháng cáo
quyết định trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Tòa án ra Quyết định. Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Dương quyền kháng nghị quyết định này trong thời
hạn 10 ngày ktngày Toà án ra quyết định. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải
Dương có quyền kháng nghị quyết định này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Toà
án ra quyết định.
Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND TP Hải Dương;
- Người yêu cầu;
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan;
- Chi cục THA dân sự TP Hải Dương;
- Lưu.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN HỌP
Phạm Thị Thu
Tải về
Quyết định số 04/2025/QĐST-LĐ Quyết định số 04/2025/QĐST-LĐ

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Quyết định số 04/2025/QĐST-LĐ Quyết định số 04/2025/QĐST-LĐ

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Quyết định cùng lĩnh vực

Quyết định mới nhất