Bản án số số/2024/DS-ST ngày 17/07/2024 của TAND huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án số/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số số/2024/DS-ST ngày 17/07/2024 của TAND huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Cư Kuin (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: số/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà H L kiện bà H J đòi lại đất cho ở nhờ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CƯ KUIN
TỈNH ĐẮK LẮK
——————————
Bản án số: 28/2024/DS-ST
Ngày 17 - 7 - 2024
V/v tranh chấp kiện đòi lại đất cho
mượn ở nhờ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK.
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Quốc Định.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Thế Vinh;
Bà Phan Thị Thiện.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Duy Thư Tòa án nhân dân
huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kuin tham gia phiên tòa:
Ông Trần Đình Phương- Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kuin xét
xử thẩm công khai vụ án thụ số: 29/2023/TLST-DS ngày 13 tháng 4 năm
2023 vviệc “Tranh chấp kiện đòi lại đất cho mượn nhờ” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 28/2024/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 6 năm 2024 giữa các
đương sự:
* Nguyên đơn: Bà H Lôň Ê, sinh năm 1965; Địa chỉ: Buôn Ê, E, huyện C,
tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Y A Tôn N, sinh năm 1994; Địa chỉ: Số C
N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt);
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Nguyễn Tiến T - thuộc văn
phòng L; Địa chỉ: Số C N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt);
* Bị đơn: Ông Y Djhuế B, sinh năm 1963 (đã chết năm 2023) và bà H Jut Ê1,
sinh năm 1961; Địa chỉ: Buôn Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk
Người đại diện theo ủy quyền: Bà H ng Ê2, sinh năm 1988; Địa chỉ: Buôn
Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
2
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Y Dleh B1, sinh năm 1964;
Địa chỉ: Buôn Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Y A Tôn N, sinh năm 1994; Địa chỉ: Số C
N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk(Có mặt);
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Nguyễn Tiến T - thuộc văn
phòng L; Địa chỉ: Số C N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
* Những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của Y Djhuế B:
- H Ju B2, sinh m 1928; H Yui Ê3, sinh năm 1984; ông Y Klais Ê4,
sinh năm 1986. Cùng địa chỉ: Buôn Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà H ng Ê2, sinh năm 1988; Địa chỉ: Buôn
Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
- H’ Chăm Êban, sinh năm 1992; Địa chỉ: Thôn P, Â, huyện H, tỉnh
Bình Định (Có mặt).
- Ông Y Pái Ê5, sinh năm 1986. Địa chỉ: Buôn Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk
(Có mặt).
- Ông Y m Ê6, sinh năm 1990. Địa chỉ: Buôn E, C, huyện K, tỉnh Đắk
Lắk (Có mặt).
- H’ Ngăng Êban, sinh năm 1994. Địa chỉ: Buôn Ê, E, huyện C, tỉnh
Đắk Lắk. (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
- Những người làm chứng:
+ Ông Y Buăn Buôn Y, sinh năm 1945. Địa chỉ: Buôn K, E, huyện C, tỉnh
Đắk Lắk.
+ Ông Y Jot H1, sinh năm 1963. Địa chỉ: Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk
Lắk.
+ Ông Y Kia K, sinh năm 1965. Buôn E, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, qtrình tham gia tố tụng tại phiên tòa người bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp cũng như người đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn trình bày:
H Lôň Êban (nguyên đơn) với ông Y Dleh B1 vợ chồng. H Lôň Ê
với H Jut Ê1 là chị em ruột với nhau. Vào năm 1983, vợ chồng H Lôň Êban
khai hoang được thửa đất với diện tích khoảng hơn 8.000 m
2
tại buôn Ê, E,
huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, vợ chồng bà H Lôň Êban canh tác trồng hoa màu
dựng túp lều tranh để tnăm 1984. Đến năm 1987, vợ chồng H Lôň Êban
làm căn nhà hai gian trên thửa đất. Ngày 10/9/1991, UBND huyện K (nay là huyện
3
C) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số A 190757 mang tên
ông Y Dleh B1, thửa đất số 2533, tờ bản đồ số 12, diện tích 8.750m
2
, mục đích sử
dụng: Khu dân cư. Đầu năm 2021, ông Y Dleh B1 đã làm thủ tục tặng cho quyền
sử dụng đất cho H Lôň Ê. Ngày 22/4/2021, H Lôň Ê được Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ số CY 385159, thửa đất số 2533, tờ bản đồ s
12, diện tích 8.750m
2
, mục đích sử dụng: Đất 400m
2
, đất trồng cây lâu năm
8.350m
2
.
Vào năm 1992, vợ chồng ông Y Djhuế B và bà H Jut Ê1 (bị đơn) đến xin vợ
chồng H Lôň Êban cho nhờ với do nhà ngoại (mH Lôň Ê) thì dịch
bệnh liên miên. Nể tình chị em nên vợ chồng bà H Lôň Êban đồng ý cho vợ chồng
ông Y Djhuế B H Jut Ê1 cùng. Năm 1994, vợ chồng ông Y Djhuế B, H
Jut Ê1 xin vợ chồng bà H Lôň Êban xây dựng căn nhà hai gian ra ở riêng bên cạnh
căn nhà của vợ chồngH Lôň Ê và mượn vợ chồng bà H Lôň Êban một diện tích
đất để trồng phê nhằm nguồn thu nhập nuôi gia đình. Vợ chồng H Lôň
Êban đồng ý cho vợ chồng ông Y Djhuế B bà H Jut Êban mượn đất với điều
kiện khi nào các con của vợ chồng bà H Lôň Êban lớn thì vợ chồng ông Y Djhuế
B, bà H Jut Ê1 phải trả lại đất cho vợ chồng bà H Lôň Êban để vợ chồng bà H Lôň
Êban chia đất cho các con. Vì là chỗ chị em ruột, tin tưởng nhau nên hai bên không
lập giấy tờ gì.
Tuy nhiên, đến nay mặc các con của vợ chồng H Lôň Ê đã trưởng
thành, vợ chồng bà H Lôň Ê đã nhiều lần đề nghị vợ chồng ông Y Djhuế B và bà H
Jut Êban trả lại đất nhưng vợ chồng ông Y Djhuế B, H Jut Ễban cứ khất nần
nói chỉ đồng ý trả lại một phần diện tích đất cho vợ chồng H Lôň Ê, làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà H Lôň Ê.
H Lôň Ê đã gửi đơn đề nghị UBND E, huyện C hòa giải tranh chấp
đất đai giữa gia đình H Lôň Êban với gia đình ông Y Djhuế B, H Jut Ê1,
nhưng việc hòa giải không thành. vậy, bà H Lôň Ê khởi kiện, yêu cầu Tòa án
giải quyết:
Buộc vợ chồng ông Y Djhuế B, H Jut Ê1 (tuy nhiên trong quá trình tố
tụng do ông Y Djhuế B đã chết nên buộc H Jut Ê1 và những người thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của ông Y Djhuế B) phải trả lại cho H Lôň Êban diện tích đất
đã mượn theo kết quả đo đạc là 1712,9m
2
thuộc một phần thửa đất số 2533, tờ bản
đồ số 12, tổng diện tích 8.750m
2
, địa chỉ thửa đất tại buôn Ê, E, huyện C,
tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài
sản khác gắn liền với đất số CY 385159 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ
cấp ngày 22/4/2021 cho H Lôň Ê. Đối với tài sản, cây cối và công trình trên đất
thì nguyên đơn đồng ý thanh toán lại bằng giá trị cho bị đơn theo kết quả định giá
tài sản.
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn của những người thừa kế quyền và nghĩa v
của ông Y Djhuế B là bà H Rưng Ê2 trình bày:
Về nguồn gốc quá trình sự dụng đất thì ông Y Djhuế B bà H Jut Ê1
(bố mH R) người dân gốc sinh sống tại buôn Ê, E, từ khi n nhỏ đến
4
khi trưởng thành lập gia đình vào năm 1980 do không có đất sản xuất nên vào năm
1989 ông Y Djhuế B H Jut Êban khai hoang đất để trồng trọt canh tác
với diện tích khoảng 1.700m
2
, có nhà ở dng vào năm 1990, có ranh giới giữa thửa
đất rõ ràng, thời gian đầu ông Y Djhuế B H Jut Êban trồng hoa màu, sau đó
trồng phê sử dụng ổn định liên tục từ năm 1989 đến nay không tranh chấp
với ai, tại thời điểm đó có ông Y Buăn B3 lãnh đạo thực hiện dự án nhiệm vụ
giãn theo chtrương của nhà nước cho phép ông Y Djhuế B H Jut Êban
khai hoang và sinh sống tại mãnh đất này. Vào thời điểm m 1988, ông Y Djhuế
B H Jut Ê1 nhờ nhà của gia đình H Lôň Êban khai hoang mảnh
đất nói trên, đến năm 1989 thì ông Y Djhuế B H Jut Êban ra riêng tđó
cho đến nay.
Cuối năm 2022 thì bà H Lôň Êban có làm đơn gửi lên UBND E cho rằng
ông Y Djhuế B H Jut Êban chiếm đất của gia đình H Lôň Ê yêu cầu
ông Y Djhuế B H Jut Ê1 trả lại đất theo H Lôň Êban đất này H
Lỗn Êban cho nhờ thì ông Y Djhuế B H Jut Ê1 cũng như các con đều
không đồng ý.
Đối với diện tích đất 1712,9m
2
mà ông Y Djhuế B bà H Jut Êban đang s
dụng đã được UBND huyện K (nay huyện C) cấp GCNQSDĐ cho ông Y Dleh
B1 không đúng hiện trạng không đúng đối tượng. đất của hai bên đã
ranh giới hàng rào do bị đơn làm từ năm 1989 cho đến nay nhưng khi UBND
huyện K cấp GCNQSDĐ cho ông Y Dleh B1 đã không kiểm tra, đo đạc và ký giáp
ranh với các hộ liền kề nên đã cấp nhầm diện tích của gia đình bị đơn cho ông Y
Dleh B1 nên bị đơn yêu cầu Tòa án kiểm tra và xem xét lại GCNQSDĐ đã cấp cho
ông Y Dleh B1.
Nay bà H Lôň Êban khởi kiện, yêu cầu a án giải quyết buộc những người
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Y Djhuế B và bà H Jut Ê1 phải trả lại cho
H Lôň Êban diện tích 1712,9m
2
thuộc một phần thửa đất số 2533, tbản đồ s12
tại buôn Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk thì gia đình H R không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là bà H Chăm Ê7, ông Y Pái Ê5, ông Y Păm Ê6 H Ngăng
Ê8 trình bày:
H Chăm Êban, ông Y Pái Ê5, ông Y Păm Ê6 H Ngăng Ê8 đều
con ruột của ông Y Djhuế B và bà H Jut Ê1. Về nguồn gốc thửa đất thì bà H Chăm
Êban, ông Y Pái Ê5, ông Y Păm Ê6 H Ngăng Ê8 thống nhất với phần trình
bày của H Rưng Ê2 đều không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại đất của
nguyên đơn. Do bận đi làm và không thể sắp xếp để tham gia tố tụng tại Tòa án
được nên bà H Ngăng Ê8 có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
Tại biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người làm chứng
là ông Y Buăn Buôn Y trình bày:
Ông Y Buăn Buôn Y không có quan hệ anh em họ hàng thân thích gì với gia
đình ông Y Djhuế B, bà H Jut Ê1 gia đình H Lôň Ê. Trước đây ông Y B4 là
5
hàng xóm với gia đình ông Y Djhuế B sinh sống tại buôn Ê, E, huyện C từ
năm 1979 đến năm 1995, đồng thời ông Y B4 cũng là cán bộ lãnh đạo thực hiện dự
án giản theo chủ trương của Nhà nước. Năm 1989 gia đình ông Y Djhuế B có
khai hoang một thửa đất có diện tích khoảng 2000m
2
và sử dụng ổn định từ đó cho
đến nay không tranh chấp với ai, quá trình xây dựng nhà trên thửa đất này thì gia
đình ông Y Djhuế B có dựng nhà tạm trên đất của gia đình bà H Lỗn Êban, sau khi
dựng nhà xong thì gia đình ông Y Djhuế B đã chuyển sang nhà mới để sinh
sống cho đến nay. Thời điểm năm 1989 thì gia đình ông Y B4 ở gần sát nhà ông Y
Djhuế B nên đất ranh giới rõ ràng đến năm 1995 tgia đình ông Y B4 chuyển
đến buôn K, xã E sống cho đến nay.
Tại biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người làm chứng
là ông Y Jot H1 trình bày:
Ông Y Jot H1 người khác buôn nhưng cùng đường đi với gia đình ông Y
Djhuế B gia đình bà H Lôň Ê, ngoài ra không quan hệ anh em con nào
khác. Ông Y Jot H1 vào sinh sống tại E, E, huyện C từ năm 1985 cho đến nay.
Ông Y J không biết về nguồn gốc đất của gia đình Y D Byă từ đâu mà có, cũng
như không biết rõ về diện tích ranh giới như thế nào, ông Y J chỉ thấy gia đình ông
Y Djhuế B canh tác, sử dụng làm nhà ổn định trên mảnh đất đó từ năm 1987
cho đến nay không tranh chấp với bất kỳ ai, chỉ mới năm 2022 thì mới tranh
chấp với gia đình H Lôň Ê. Còn việc hai gia đình tranh chấp với nhau như thế
nào thì ông không biết rõ. Tại phiên tòa ông Y Jot H1 trình bày đối với diện tích
đất mà hai bên đang tranh chấp thì ông Y Jot H1 thấy gia đình H Lôň Êban s
dụng trước, một thời gian sau thì mới thấy gia đình bà H Jut Êban đến sử dụng.
Tại phiên tòa người làm chứng là ông Y Kia K trình bày:
Ông Y Kia K chỉ là hàng xóm của bà H Lôň Ê và bà H Jut Ê1, ngoài ra không
mối quan hệ anh họ hàng huyết thống gì. Về nguồn gốc thửa đất hai bên
tranh chấp tông Y Kia K thấy trước đây do gia đình H Lôň Êban sử dụng
trước, sau đó mới thấy gia đình H Jut Êban đến sử dụng sau còn việc hai bên
cho mượn đất hay như thế nào thì ông không biết.
Ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên toà: Trong quá trình giải quyết
vụ án kể từ khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào phòng
nghị án Thẩm phán, Thư Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70,
71, 72, 73 Bộ luật Ttụng dân sự năm 2015. Áp dụng các Điều 164, 175 Bluật
dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 166 khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013,
đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra
tại phiên tòa, lời trình bày của những người tham gia tố tụng, kết quả tranh tụng và
ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn H Lôň Ê khởi kiện
6
yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H Jut Ê1 và những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của ông Y Djhuế B phải trả lại cho H Lôň Êban diện tích đất đã mượn
1712,9m
2
tại thửa đất số 2533, tờ bản đồ số 12 tại Buôn Ê, xã E, huyện C, tỉnh Đắk
Lắk nên xác định quan hệ pháp luật của vụ án tranh chấp kiện đòi lại đất cho
mượn. Do bị đơn trú đất tranh chấp tọa lạc tại Buôn Ê, E, huyện C, tỉnh
Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kuin.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị H Ngăng Êban có đơn yêu cầu xét xử
vắng mặt. vậy, Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin căn cứ vào khoản 3 khoản 9
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227 Điều 228
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để thụ lý, giải quyết và xét xử vắng mặt người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng với quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Về nguồn gốc đất: Thửa số 2533, tờ bản đồ số 12, diện tích 8.750m
2
do vợ chồng ông Y Dleh B1 H Lôň Êban khai hoang sử dụng từ năm 1983.
Đến năm 1991 thì đi khai UBND huyện K (nay là huyện C) cấp GCNQSDĐ
số A 190757, ngày 10/9/1991 mang tên ông Y Dleh B1. Năm 1992 vợ chồng ông
Y Dleh B1 và H Lôň Êban cho vợ chồng ông Y Djhuế B và bà H Jut Ê1 mượn một
phần diện tích đất 1712,9m
2
(theo kết quả đo đạc) đlàm nhà trồng phê
nhằm nguồn thu nhập nuôi gia đình. Do giữa H Lôň Ê bà H Jut Êban
chị em ruột với nhau nên không lập hợp đồng giấy tờ với nhau. Bị đơn cho
rằng nguồn gốc của diện tích đất 1712,9m
2
nguyên đơn khởi kiện đòi lại do
bị đơn khai hoang từ năm 1989 nhưng không có chứng cứ để chứng minh, lời khai
của hai người làm chứng cho bị đơn ông Y J ông Y B4 cũng không đủ sở
và không phù hợp với hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn.
[2.2] Bị đơn khai nguồn gốc đất tranh chấp do bị đơn khai hoang nhưng
theo kết quả xem xét thẩm định đo đạc ttoàn bdiện tích đất tranh chấp đều
nằm trong thửa đất số 2533, tờ bản đồ số 12 đã được cấp GCNQSDĐ cho nguyên
đơn. Quá trình nguyên đơn đi đăng khai và được cấp GCNQSDĐ thì bị đơn
không phản đối. Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/4/2024 (bút lục s136) đại
diện của bị đơn khai đến năm 2015 thì bị đơn biết nguyên đơn đã được cấp
GCNQSDĐ đối với phần diện tích đất bị đơn đang sdụng xâm phạm đến
quyền lợi của bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến phàn đối và không có khiếu nại
về việc UBND huyện K cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn đối với diện tích đất
mà mình đang sử dụng.
[2.3] Tại biên bản hòa giải ngày 19/6/2024 (bút lục số 169-171) mặc đại
diện của bị đơn khai nguồn gốc đất do khai hoang nhưng lại đồng ý trả lại cho
nguyên đơn diện tích đất tranh chấp kích thước 14,95m x 44,85m = 670,5m
2
nên việc bị đơn cho rằng đất do ông Y Djhuế B H Jut Ê1 khai hoang
không phù hợp. Bởi lẽ, nếu nguồn gốc đất là do bị đơn khai hoang và sử dụng hợp
pháp ttrước đến nay thì không thể bị đơn lại đồng ý trả lại cho nguyên đơn diện
tích đất lớn như vậy.
7
[2.4] Tại phiên tòa người làm chứng ông Y Jot H1 và ông Y Kia K đều xác
nhận diện tích đất tranh chấp do nguyên đơn sử dụng trước rồi mới đến bị đơn
sử dụng sau.
[2.5] Từ các nhận định nêu trên nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn H Lôň Ê, buộc bà H Jut Ê1 và những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của ông Y Djhuế B phải trả lại cho nguyên đơn diện tích đất 1712,9m
2
tại
thửa đất số 2533, tờ bản đồ số 12, có tổng diện tích 8.750m
2
, tọa lạc lại tại buôn Ê,
E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CY 385159 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đ cấp ngày 22/4/2021 cho bà H Lôň Ê.
[2.6] Đối tài sản, công trình và cây trồng trên đất: Quá trình canh tác sử dụng
đất, bđơn đã làm nhà, trồng cây trên đất nguyên đơn đều biết nhưng không phản
đối, đồng thời nguyên đơn đồng ý thanh toán lại bằng giá trị cho bị đơn đối với tài
sản, ng trình trên đất theo kết quả định giá. Tại biên bản định giá tài sản tranh
chấp Hội đồng định giá xác định gtrị của toàn bộ công trình, tài sản cây cối
trên đất do bị đơn đầu làm 429.759.000 đồng nên cần buộc nguyên đơn phải
thanh toán lại cho H Jut Êban những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông Y Djhuế B số tiền này là phù hợp.
[3] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn có đơn yêu cầu
Tòa án đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản đối với diện tích đất
tranh chấp tài sản trên đất để làm cơ sở giải quyết vụ án, đồng thời nguyên đơn
đã nộp 9.000.000 đồng tiền chi phí tố tụng. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có
căn cứ và được chấp nhận nên bị đơn ông Y Djhuế B H Jut Ê1 phải chịu
9.000.000 đồng tiền chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản
theo quy định các Điều 157, 165 Bộ luật Tố tụng dân sự, chia đều cho ông Y
Djhuế B bà H Jut Ê1 mỗi người 4.500.000 đồng. Do ông Y Djhuế B đã chết
nên những người thừa kế của ông Y Djhuế B gồm: H Ju B2, H Jut Ê1, H
Yui Ê3, ông Y Klais Ê4, H ng Ê2, bà H’ Chăm Êban, ông Y i Ê5, ông Y
Păm Ê6, H’ Ngăng Êban mỗi người phải nghĩa vụ hoàn trả cho bà H Lỗn
Êban số tiền là 4.500.000 đồng : 9 người = 500.000 đồng là phù hợp.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận
nên bị đơn ông Y Djhuế B H Jut Ê1 phải chịu án phí dân sự thẩm. Tuy
nhiên, do ông Y Djhuế B và H Jut Êban người cao tuổi nên được miễn toàn
bộ án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án. H Lôň Ê phải chịu án phí dân sự thẩm giá ngạch với mức
20.000.000 đồng + (4% x 29.759.000 đồng) = 21.190.000 đồng (đã làm tròn)
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
8
Căn cứ khoản 3 khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản
1 Điều 39; các Điều 144, 147,157, 161, 165, 227, 228, 235, 266 Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 1 Điều 26, khoản 5 Điều 166, khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm
2013; Các Điều 164, 494; 495, 499 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều
12, Điều 26 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H Lôň Ê.
1. Buộc bà H Jut Ê1 những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Y
Djhuế B gồm: H Ju Byă, H Yui Ê3, ông Y Klais Ê4, H Rưng Ê2, H’
Chăm Êban, ông Y Pái Ê5, ông Y Păm Ê6, H’ Ngăng Ê6 phải trả lại cho H
Lôň Êban diện tích đất 1712,9m
2
cùng toàn bộ tài sản, công trình cây cối gắn
liền với đất tại thửa đất số 2533, tờ bản đsố 12, diện tích 8.750m
2
, tọa lạc lại tại
buôn Ê, E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CY 385159 do S Tài
nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/4/2021 cho bà H Lôň Ê. Đất vị trí tứ
cận, kích thước tài sản trên đất theo biên bản xem xét thẩm định và trích đo đạc
của Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc - vấn Nông Lâm nghiệp tỉnh Đ n
sau:
- Phía Đông giáp thửa đất số 2740 có cạnh dài gấp khúc lần lượt là 19,36m,
11,43m;
- Phía Tây giáp phần đất còn lại của thửa đất số 2533 có cạnh dài 44,85m;
- Phía Nam giáp đường tông liên thôn cạnh dài gấp khúc lần lượt
14,95m, 13,71m và 12,32m;
- Phía Bắc giáp thửa đất số 2296 cạnh dài gấp khúc lần lượt 23,80m,
4,45m và 17,43m.
Tài sản, công trình gắn liền với đất gồm có: 01 nhà xây cấp IV diện tích
105m
2
; 01 nhà khung gỗ, diện tích 82,6m
2
; 01 nhà xây chương trình 167, diện tích
23,4m
2
; 01 nhà vệ sinh + nhà tắm, diện tích 5,7m
2
; 01 bể nước thtích 01m
3
; 01
Giếng đào đường kính 1,2m, sâu 15m; 01 bồn nước chân đế; sân tông diện
tích 186,3m
2
; hàng rào trụ tông, tường xây gạch cao 40cm, trên có lưới B40 có
tổng chiều dài 35,9m; hàng o kéo dài lưới B40 tổng chiều dài 70,34m; 02 trụ
cổng và 02 cảnh cổng sắt; mái che diện tích 32,6m
2
.
Cây trồng trên đất gồm có: 144 cây Cau, 02 cây Xoài, 01 cây Đu đủ, 02 cây
Mít ghép; 01 cây Bưởi; 03 cây i; 02 cây Chôm Chôm đều trồng năm 2018; 01
cây Sáp 01 cây Mẵng Cầu trồng năm 2009; 01 cây Lộc Vừng 02 cây
Thanh Long trồng năm 2011; 01 cây Sầu Riêng ghép trồng năm 2018; 01 bụi tre,
01 cây Cóc, 01 cây Chanh trồng năm 2018; 01 cây Nhãn, 01 cây Dừa trồng năm
2022; 01 cây Sao Đen, 02 cây Keo, 01 cây Xoan, 01 cây Sim, 01 cây Lồng Mức,
05 cây Muồng Đen; 58 cây Cà phê trồng năm 1993; 47 trụ Tiêu trồng năm 2018.
9
2. H Lôň Ê nghĩa vụ thanh toán cho H Jut Ê1 những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của ông Y Djhuế B gồm: H Ju Byă, H Yui Ê3, ông Y
Klais Ê4, H Rưng Ê2, bà HChăm Êban, ông Y Pái Ê5, ông Y Păm Ê6, H’
Ngăng Êban số tiền 429.759.000 đồng (Bốn trăm hai mươi chín triệu, bảy trăm
năm mươi chín nghìn đồng).
Kể tngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi nh xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án n phải
chịu khoản tiền lãi của stiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành
án.
3. Về chi phí tố tụng:
- H Jut Êban nghĩa vụ hoàn trả cho H Lôň Êban stiền 4.500.000
đồng tiền chi phí đo đạc, xem xét thẩm định và định giá tài sản.
- H Ju B2, H Yui Ê3, ông Y Klais Ê4, H Rưng Ê2, bà H’ Chăm
Êban, ông Y Pái Ê5, ông Y m Ê6, bà H’ Ngăng Êban mỗi người nghĩa vụ
hoàn trả cho H Lỗn Êban 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) tiền chi phí đo
đạc, xem xét thẩm định và định giá tài sản.
4 . Về án phí:
- H ň Êban phải chịu 21.190.000 đồng (Hai mươi mốt triệu, một trăm
chín mươi nghìn đồng) án phí dân sự thẩm được khấu trừ vào số tiền
2.500.000 đồng tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án
số: AA/2021/0017563 ngày 31/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân shuyện C,
tỉnh Đắk Lắk. H Lôň Ê còn phải nộp 18.690.000 đồng (Mười tám triệu, sáu
trăm chín mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Y Djhuế Bbà H Jut Ê1 được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo
quy định.
Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sthì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được
thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND huyện Cư Kuin;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
10
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
Lê Quốc Định
Tải về
Bản án số số/2024/DS-ST Bản án số số/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số số/2024/DS-ST Bản án số số/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất