Bản án số Số/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số Số/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số Số/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án Số/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số Số/2024/DS-PT ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | Số/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | L tranh chấp hợp đồng vay tài sản với ông P bà H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Văn Công Dần.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Ngọc Sâm và bà Nguyễn Thị My My.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Hương Giang – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Bà Lương Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 137/2024/TLPT- DS ngày 28
tháng 7 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 41/2024/DS - ST ngày 05/4/2024 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột bị kháng cáo, kháng nghị
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 231/2024/QĐ- PT
ngày 26 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa dân sự phúc thẩm số
257/2024/QĐ – PT ngày 22 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Trường L; địa chỉ: 0 T, phường A, Quận A,
thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quang C; địa chỉ: 5 N,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Bị đơn: Ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H; địa chỉ: E N, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk; có đơn xin xét xử vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 272/2024/DS - PT
Ngày 30 – 8 – 2024
V/v tranh chấp hợp đồng vay
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà Phan Thị Thu H: Bà Nguyễn Thị
H1; địa chỉ: A P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lê Văn P: Ông Phạm
Văn N - Luật sư thuộc Văn phòng L1, đoàn Luật sư tỉnh Đ; có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H;
Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Phan Trường L và ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H là anh em
trong gia đình (bà H là em gái của ông Phan Trường L) do có mối quan hệ anh
em trong nhà nên vợ chồng ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H có đặt vấn đề
nhờ ông Phan Trường L vay tiền, bản thân ông Phan Trường L không có tiền
nên ông Phan Trường L có làm hợp đồng thế chấp căn nhà 0 T, phường A. Quận
A, TP Hồ Chí Minh để vay tiền ngân hàng V chi nhánh G để vay tiền với tiền
7.000.000.000 đồng (Bảy tỷ đồng). Việc vay Ngân hàng xảy ra nhiều lần đáo
hạn để vay tiền cho ông P, bà H và lần vay cuối cùng là 7.000.000.000 đồng tại
ngân hàng V. Mục đích vay để kinh doanh mua bán và mở công ty TNHH X.
Sau khi ngân hàng giải ngân thì vợ chồng ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H
là người trực tiếp lấy số tiền này từ ông L. Ông P và bà H là người trực tiếp trả
nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng cả gốc và lãi. Đến ngày 13/4/2022
ông P và bà H không tiếp tục trả góp cho Ngân hàng được nữa nên ông Lê Văn
P viết xác nhận với số tiền 5.500.000.000 đồng vì không có khả năng để nộp
góp và nhờ anh em giúp đỡ một thời gian khoảng 1 năm thì tiếp tục để nộp góp
cho Ngân hàng. Tuy nhiên ông P và bà H không thực hiện. Nay đã đến hạn trả
nợ Ngân hàng yêu cầu ông L trả số tiền gốc và lãi thì ông L có yêu cầu ông P, bà
H trả nhưng vợ chồng ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H không trả cho ông
Phan Trường L để ông Phan Trường L trả cho ngân hàng, ông Phan Trường L
đã đòi nhiều lần nhưng ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H không trả lẩn tránh
không gặp ông Phan Trường L để giải quyết vụ kiện. Do vậy ông Phan Trường
L làm đơn này đề nghị Toà án giải quyết buộc vợ chồng ông Lê Văn P và bà
Phan Thị Thu H hoàn trả số tiền 5.500.000.000 đồng và lãi suất theo hợp đồng
tín dụng của ngân hàng V ngày 04/4/2022 là 15%/năm kể từ ngày 25/6/2023 đến
ngày 05/9/2023 là 228.024.362 đồng tiền lãi và tiếp tục trả lãi đến khi trả nợ
xong.
Ngày 26/01/2024 đại diện theo uỷ quyền của ông Phan Trường L có làm
đơn thay đổi một phần nội dung đơn kiện yêu cầu ông Lê Văn P và bà Phan Thị
3
Thu H trả cho ông Phan Trường L số tiền 4.936.946.000 đồng và lãi suất từ
ngày 13/4/2022 cho đến nay.
2. Đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Phan Thị Thu H là bà
Nguyễn Thị H1 trình bày:
Sau khi bà Phan Thị Thu H được biết nội dung đơn khởi kiện và một số tài
liệu do ông Phan Trường L nộp kèm đơn kiện, bà Phan Thị Thu H khẳng định:
Vợ chồng bà (Lê Văn P, Phan Thị Thu H) không nhờ ông Phan Trường L vay số
tiền 7.000.000.000 đồng tại V để ông Phan Trường L lại cho vợ chồng bà H, ông
P vay lại số tiền 5.500.000.000 đồng vào ngày 13/4/2022. Do đó, bà Phan Thị
Thu H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Phan Trường L, đề nghị Tòa
án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông L.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2024/DS - ST ngày 05/4/2024 của
Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng các Điều 26, Điều 35, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều
463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết của
UBTVQH số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định án phí lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Phan Trường L.
Buộc ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H hoàn trả ông Phan Trường L số
tiền gốc 4.936.946.000 đồng và số tiền 1.172.650.152 đồng lãi suất. Tổng cộng
phải trả là 6.109.596.152 đồng.
Ông Lê Văn P và bà Phan Thị Thu H tiếp tục trả lãi suất phát sinh theo
hợp đồng tín dụng số 4806599.22 ngày 04/4/2022 và phụ lục hợp đồng
7541977.23 ngày 19/5/2023 của Ngân hàng V từ ngày 06/4/2024 cho đến khi trả
xong nợ gốc.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 19/5/2024, bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H có đơn kháng
cáo với nội dung: Ông P, bà H không vay số tiền 5.500.000.000 đồng như ông
Phan Trường L khởi kiện. Thực tế ông P, bà H chỉ vay của ông L tổng số tiền
350.000.000 đồng nhưng sau đó đã nhiều lần chuyển trả vào tài khoản ngân
hàng V của ông L với số tiền gần 600.000.000 đồng. Do đó, đề nghị HĐXX
phúc thẩm xem xét sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 26/4/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban
hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 364/QĐ – VKS – DS kháng nghị đối
4
với Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2024/DSST ngày 05/4/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm thu thập tài
liệu chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ chưa khách quan, tuyên án không rõ, căn cứ
tính lãi suất không đúng, không tuyên nghĩa vụ chậm trả khi thi hành án làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự nên cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển
hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Trước khi mở phiên tòa và tại phiên toà, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn thay đổi một phần đơn khởi kiện, đề nghị Toà án giải quyết buộc bị
đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải thanh toán cho ông Phan Trường L
số tiền nợ gốc là 4.577.435.000 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật. Bị
đơn ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị Thu H2 vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng
cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn ông Lê Văn P là luật
sư Phạm Văn N trình bày: Ngày 13/4/2022, sau khi được Ngân hàng V giải ngân
số tiền 7.000.000.000 đồng vào tài khoản thì ông Phan Trường L đã chuyển
khoản cho ông Nguyễn Hữu T số tiền 6.450.000.000 đồng và bà Nguyễn Thị H3
số tiền 100.000.000 đồng nên không thể có số tiền 5.500.000.000 đồng để cho
ông Lê Văn P vay theo giấy mượn tiền. Mặt khác, ông Phan Trường L không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc đã giao tiền cho ông P.
Do đó đề nghị HĐXX phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn, sửa bản
án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn giữ
nguyên nội dung Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 364/QĐ – VKS – DS
ngày 26/4/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk và phát
biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án thẩm phán, Hội đồng
xét xử, thư ký Tòa án, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
Về nội dung: Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
cũng như trình bày của các đương sự tại phiên toà, đề nghị HĐXX căn cứ khoản
3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo
của bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H, chấp nhận Quyết định kháng nghị
phúc thẩm số 364/QĐ – VKS – DS ngày 26/4/2024 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án, kết
quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Đơn kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H và
Quyết định kháng nghị của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk làm trong thời
hạn luật định, ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H đã nộp tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm nên hợp lệ.
[1.2]. Đối với việc thay đổi nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn, xét
thấy, ngày 20/01/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc P và bà H phải trả cho ông L số
tiền 4.936.946.000 đồng nợ gốc và yêu cầu tính lãi là 15%/năm kể từ ngày
13/4/2022 cho đến khi trả nợ xong.
Trước khi mở phiên tòa và tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn thay đổi một phần đơn khởi kiện, đề nghị Toà án giải
quyết buộc bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải thanh toán cho ông
Phan Trường L số tiền nợ gốc là 4.577.435.000 đồng và lãi suất theo quy định
của pháp luật. Xét thấy, việc thay đổi nội dung khởi kiện của người đại diện theo
uỷ quyền của nguyên đơn không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu và không
làm bất lợi cho bị đơn nên cần chấp nhận việc thay đổi nội dung đơn khởi kiện
của nguyên đơn.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, các đương sự đều xác
định, ngày 13/4/2022, sau khi Ngân hàng V giải ngân số tiền 7.000.000.000
đồng vào tài khoản, ông Phan Trường L đã chuyển khoản tới số tài khoản
937704067777777 tên tài khoản: Nguyễn Hữu T số tiền 6.450.000.000 đồng và
chuyển khoản đến số tài khoản 001239999 tên tài khoản: Bùi Thị H4 số tiền
100.000.000 đồng.
Phía nguyên đơn cho rằng do trước đó ông P có vay tiền của ông Bùi Hữu
T1 để tất toán khoản vay 6.000.000.000 đồng tại Ngân hàng A chi nhánh B nên
sau khi ông L được giải ngân, ông P đã yêu cầu ông L chuyển khoản cho ông
Bùi Hữu T1 số tiền 6.450.000.000 đồng để trả nợ cho ông P và chuyển cho bà
Nguyễn Thị H3 số tiền 100.000.000 đồng . Việc ông L chuyển khoản cho ông
T1 và bà H3 là theo thông tin do ông P cung cấp, còn ông T1 và bà H3 là ai thì
ông L không được biết. Tuy nhiên, lời trình bày của phía nguyên đơn không
được ông Lê Văn P thừa nhận, ông P cũng không biết ông T1, bà H3 là ai.
6
Do các bên đều xác định không biết ông T1 là ai và không cung cấp được
địa chỉ cho Tòa án nên việc ông Phan Trường L chuyển khoản cho ông Bùi Hữu
T1 số tiền 6.450.000.000 đồng nhằm mục đích gì, Tòa án không thể xác minh
làm rõ.
[2.2]. Xét kháng cáo của bị đơn và Kháng nghị của Viện trưởng VKSND
tỉnh Đắk Lắk, HĐXX nhận định như sau:
Tại biên bản làm việc ngày 05/6/2024, ông Lê Văn P trình bày: Ông Lê
Văn P xác định, chữ ký và chữ viết đứng tên L.V. P trong giấy mượn tiền đề
ngày 13/4/2022 là chữ ký và chữ viết của ông P. Tuy nhiên, sự việc cụ thể như
sau: Do cần vốn để làm ăn nên ông Lê Văn P đã nhờ ông Phan Trường L (là anh
trai của vợ ông P) đứng ra thế chấp tải sản để vay tiền rồi cho ông P vay lại. Sau
đó, ông L đã thế chấp tài sản là căn nhà tại số C T, phường A, quận A, thành phố
Hồ Chí Minh để vay số tiền 07 tỷ đồng tại ngân hàng V. Sau đó, ông L đã lập
sẵn giấy mượn tiền với nội dung là ông Lê Văn P và vợ là bà Phan Thị Thu H
mượn của ông Phan Trường L số tiền 7.000.000.000 đồng (bày tỷ đồng) và yêu
cầu ông P ký vào. Do thấy số tiền mà ông P có nhu cầu mượn là không đúng nên
tại mục ý kiến của các bên, ông P đã viết thêm nội dung: Đồng ý với việc nhờ
ông L đứng ra vay tại Ngân hàng V, tuy nhiên số tiền mà ông P cần là khoảng
5,5 tỷ. Việc ông P không viết rõ số tiền cụ thể mà chỉ ghi là “khoảng” là do khi
đó ông L chưa chuyển tiền cho ông P nên ông P không rõ ông L sẽ cho vay số
tiền chính xác là bao nhiêu. Mặt khác, do là anh em nên ông P tin tưởng rằng sau
khi ông L chuyển tiền thì số tiền ông L cho ông P vay sẽ thể hiện ở tài khoản.
Do đó, mặc dù chưa nhận được tiền, ông P vẫn đồng ý ký giấy vay. Tuy nhiên,
sau khi ông P giấy vay thì ông L không đưa tiền hay chuyển tiền vào tài khoản
cho ông P1 vay như thoả thuận mà chỉ chuyển cho ông P tổng số tiền
350.000.000 đồng (số tiền này được chuyển làm 03 lần, 02 lần 10.000.000 đồng
và 01 lần 330.000.000 đồng). Số tiền này ông P đã chuyển trả hết cho ông L.
Xét lời khai của ông P hội đồng xét xử thấy rằng: Tại thời điểm xác lập
giấy vay tiền ngày 13/4/2022, ông Lê Văn P là người có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, ông P ký giấy vay tiền trên cơ sở tự nguyện, không bị đe dọa, ép buộc.
Sau khi ký giấy vay tiền, ông P cho rằng số tiền vay thực tế là 350.000.000 đồng
nhưng ông P lại không yêu cầu ông L hủy giấy vay tiền cũ hoặc xác lập giao
dịch vay tiền mới. Mặt khác, tại Công văn số 3222274.24 ngày 20/8/2024 của
Ngân hàng Thương mại cổ phần Q (V) – Chi nhánh S – Phòng G1 xác định: Sau
ngày 13/4/2022, số tài khoản 888891969 của ông Phan Trường L có nhiều lần
phát sinh giao dịch nhận tiền từ tài khoản đứng tên LE VAN PHUONG (Lê Văn
P) với tổng số tiền là 860.535.000 đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào báo cáo giao
dịch chuyển tiền qua NaPas – chi nhánh thể hiện do Ngân hàng cung cấp kèm
7
theo Công văn nói trên (có xác nhận của Kiểm soát viên Nguyễn Thị Thu H5)
thì tổng số tiền ông Lê Văn P chuyển cho ông Phan Trường L là 922.565.000
đồng, trong đó có nhiều lần ông Lê Văn P chuyển tiền với nội dung: “ck goc va
lai vib sg”, “tien lai T8/2022”, “lai T9”, “nop tiep lai T9”, “goc + lai”. Như vậy,
việc ông P cho rằng chỉ vay Phan Trường L số tiền 350.000.000 đồng là mâu
thuẫn với việc ông P chuyển khoản cho ông L tổng số tiền 922.565.000 đồng.
Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định có việc ông Lê Văn P vay của ông
Phan Trường L số tiền 5.500.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 13/4/2022 là
có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại biên bản làm việc ngày 05/6/2024, ông Lê Văn P xác định: Việc ông P
nhờ ông L đứng ra vay mượn tiền và việc ông P ký tên trong giấy mượn tiền đề
ngày 13/4/2022 thì vợ ông là bà Phan Thị Thu H không được biết. Bà H cũng
cho rằng bà và ông P không nhờ ông L vay tiền nên không đồng ý trả nợ.
HĐXX xét thấy, mặc dù bà H không ký giấy nhưng tại thời điểm vay mượn bà
H và ông P là vợ chồng, số tiền vay mục đích kinh doanh là phát triển công ty
TNHH X và bà H là thành viên góp vốn của công ty (giấy đăng ký kinh doanh
mã số 6000440837 ngày 14/12/2022). Do đó, việc Toà án cấp sơ thẩm buộc bà
Phan Thị Thu H cũng phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền vay cho ông Phan
Trường L là có căn cứ.
[2.3]. Về số tiền vay:
Căn cứ vào báo cáo giao dịch chuyển tiền qua NaPas – chi nhánh thể hiện
do Ngân hàng V cung cấp, tính đến ngày 26/6/2023, ông Lê Văn P đã chuyển
khoản cho ông Phan Trường L tổng số tiền 922.565.000 đồng nên cần khấu trừ
số tiền này vào số tiền nợ 5.500.000.000 đồng, như vậy, số tiền nợ gốc ông Lê
Văn P, bà Phan Thị Thu H còn phải trả cho ông Phan Trường L là:
5.500.000.000 đồng - 922.565.000 đồng = 4.577.435.000 đồng. Vì vậy, việc
Toà án cấp sơ thẩm buộc ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải trả cho ông
Phan Trường L số tiền nợ gốc là 4.936.946.000 đồng là chưa chính xác. Tuy
nhiên, tại phiên toà phúc thẩm, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn cũng chỉ
yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền 4.577.435.000 đồng. Vì vậy, cần chấp nhận
một phần đơn kháng cáo của ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H, sửa bản án sơ
thẩm về số tiền nợ gốc ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải trả cho ông Phan
Trường L.
[2.4]. Về lãi suất và nghĩa vụ chịu lãi suất chậm trả khi thi hành án,
HĐXX nhận định như sau:
Tại Giấy mượn tiền ngày 13/4/2022 giữa ông L và ông P, các bên không
thỏa thuận về việc ông P phải trả lãi suất theo như hợp đồng tín dụng do ông L
8
đã ký với Ngân hàng vào ngày 04/4/2022 và phụ lục hợp đồng ngày 19/5/2022.
Trong nội dung Giấy mượn tiền nói trên cũng không có thoả thuận về lãi suất
nên đây là hợp đồng vay không có lãi theo quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ
luật dân sự.
Việc Toà án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H
phải chịu tiền lãi suất theo hợp đồng tín dụng do ông L đã ký với Ngân hàng là
vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều 5 Nghị
quyết 01/2019/ NQ – HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
Ông Phan Trường L chỉ được yêu cầu ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H trả tiền
lãi trên nợ gốc quá hạn theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015 trên số tiền chậm trả tại thời điểm trả nợ tương ứng với
thời gian chậm trả nợ gốc.
Theo báo Báo cáo giao dịch chuyển tiền qua N1 – chi nhánh do Ngân
hàng V cung cấp, thời điểm cuối cùng ông P chuyển khoản cho ông Phan
Trường L là ngày 01/6/2023, do đó, thời gian chậm trả nợ gốc được tính từ ngày
tiếp theo (ngày 02/6/2023) đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 05/4/2024) = 309
ngày.
Như vậy, số tiền lãi trên nợ gốc quá hạn ông P, bà H phải trả cho ông L là:
4.577.435.000 đồng x 10% năm x 309 ngày = 387.514.000 đồng (làm tròn số).
Tổng số tiền mà ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải trả cho ông Phan
Trường L là: 4.577.435.000 đồng (tiền gốc) + 387.514.000 đồng (tiền lãi) =
4.964.949.000 đồng.
Đối với nghĩa vụ chịu lãi suất chậm trả khi thi hành án, xét thấy quan hệ
tranh chấp trong vụ án là tranh chấp hợp đồng vay tài sản, không phải tranh chấp
hợp đồng tín dụng, tuy nhiên Toà án cấp sơ thẩm lại buộc bị đơn tiếp tục trả lãi
suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng ngày 04/4/2022 và phụ lục hợp đồng ngày
19/5/2023 của Ngân hàng từ ngày 06/4/2024 cho đến khi trả nợ xong nợ gốc là
không đúng. Trường hợp này cần căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 Nghị quyết
01/2019/NQ – HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân dân tối cao,
buộc bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải chịu mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của BLDS 2015 kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử cho
đến khi thi hành án xong.
[2.5]. Từ những phân tích, nhận định nói trên, HĐXX xét thấy cần chấp
nhận một phần đơn kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H và
một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 346/QĐ – VKS – DS ngày
26/4/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sửa một phần
9
bản án sơ thẩm về số tiền nợ gốc phải thanh toán, tiền lãi và nghĩa vụ chịu lãi
suất chậm trả khi thi hành án.
[3]. Về án phí và chi phí tố tụng:
[3.1]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm về số tiền phải
thanh toán nên cần tính lại án phí dân sự sơ thẩm. Cụ thể như sau:
- Bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm đối với tổng số tiền phải trả cho ông Phan Trường L là 4.964.949.000 đồng
theo mức: 112.000.000 đồng + 0,1% (4.964.949.000 đồng – 4.000.000.000
đồng) = 112.965.000 đồng (làm tròn số).
- Nguyên đơn ông Phan Trường L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
[3.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do được chấp nhận một phần kháng
cáo nên ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
[3.3]. Về chi phí tố tụng: Ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải chịu số
tiền 5.400.000 đồng chi phí giám định chữ viết và chữ ký. Hoàn trả cho ông
Phan Trường L số tiền 5.400.000 đồng sau khi thu được của ông Lê Văn P, bà
Phan Thị Thu H.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1].Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Lê Văn P, bà Phan Thị
Thu H.
- Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 346/QĐ –
VKS – DS ngày 26/4/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk
- Sửa Bản án dân sư sơ thẩm số 41/2024/DS – ST ngày 05/4/2024 của Toà
án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Trường L.
Buộc ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải trả cho ông Phan Trường L
tổng số tiền 4.964.949.000 đồng, trong đó: nợ gốc: 4.577.435.000 đồng, tiền lãi
trên nợ gốc quá hạn là 387.514.000 đồng.
10
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành xong,
ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải
thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
[3]. Về án phí và chi phí tố tụng:
[3.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải chịu 112.965.000 đồng án phí
dân sự sơ thẩm.
- Ông Phan Trường L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận
lại số tiền 57.614.012 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông Phan Trường L
đã nộp theo biên lai thu số AA/2022/0004547 ngày 27/9/2023 tại Chi cục thi
hành án dân sự TP B.
[3.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông P, bà H được nhận lại số tiền
600.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo các biên lai số
AA/2023/0009942 và AA/2023/0009943 do bà Nguyễn Thị H1 nộp thay ngày
24/4/2024.
[3.3]. Về chi phí tố tụng: Ông Lê Văn P, bà Phan Thị Thu H phải chịu số
tiền 5.400.000 đồng chi phí giám định chữ viết và chữ ký. Hoàn trả cho ông
Phan Trường L số tiền 5.400.000 đồng sau khi thu được của ông Lê Văn P, bà
Phan Thị Thu H.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
-VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. BMT;
- Chi cục THADS Tp. B;
- Đăng Cổng TTĐT TANDTC
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
( Đã ký)
Văn Công Dần
11
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 341/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 107/2025/DS-Pt ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 128/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 129/2025/DS-PT ngày 25/06/2025 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 330/2025/DS-PT ngày 19/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 365/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Bản án số 325/2025/DS-PT ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm