Bản án số 96/2024/HC-PT ngày 29-03-2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 96/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 96/2024/HC-PT ngày 29-03-2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Quan hệ pháp luật: QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư…
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 96/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/03/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Lê N và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 74/2023/HC-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Trương Minh Tuấn
Các Thẩm phán:
Ông Đặng Kim Nhân
Ông Nguyễn Cường
- Thư phiên tòa: Bà Đinh Thị Trang, Thư Tòa án cấp cao tại Đà
Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: Ông Nguyễn Thế Vinh, Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số 346/2023/TLPT-
HC ngày 23 tháng 11 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 74/2023/HC-ST ngày 11 tháng 7 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 336/2024/QĐ-PT ngày 04 tháng 3
năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Lê N, sinh năm 1943; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hoài P, vắng mặt;
Cùng địa chỉ: Tổ B, khối N, phường C, thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Luật Phạm Văn N1 Văn
phòng L1, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đ. Địa chỉ: 2 Đ, quận T, thành phố Đà
Nẵng; có mặt.
- Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q; có đơn xin xét xử vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 96/2024/HC-PT
Ngày: 29-3-2024
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Trường S Phó Giám
đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q; có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh L Phó Chủ tịch; có đơn
xin xét xử vắng mặt.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh L Phó Chủ tịch; có đơn
xin xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân thành phố H,
tỉnh Quảng Nam và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Nam:
1. Ông Vương Quốc H Trưởng phòng Phòng Tài nguyên Môi trường
thành phố H, tỉnh Quảng Nam; có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Ông Trần Thanh H1 Chủ tịch UBND phường C, thành phố H tỉnh
Quảng Nam; có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Lê N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại các văn bản trong hồ vụ án tại phiên tòa, người đại diện
theo ủy quyền của người khởi kiện, ông Lê Hoài P trình bày:
Vào năm 1997, thửa đất của gia đình ông N bị sạt lở một phần nên
được UBND thị H (nay thành phố H) di dời gia đình ông đi và giao cho
ông thửa đất số 19, tờ bản đồ số 33, diện tích 198,9m
2
để ông làm nhà nhằm
ổn định cuộc sống. Sau đó, ngày 31/12/1999, UBND phường C cùng cán bk
thuật của Sở địa chính (nay Sở T) ông N đã lập biên bản xác định hiện
trạng ranh giới, mốc giới thửa đất nói trên. Đến ngày 12/12/2005, UBND thị xã
H đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 399551 đối với thửa đất
nêu trên, diện tích 198,9m
2
cho ông.
Tuy nhiên, đến ngày 18/01/2007, UBND thị H ban hành Quyết định số
22/QĐ-UBND, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên của ông với
do diện tích đất ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông trùng
với diện tích đất đã được giao cho hộ sử dụng liền kề.
Không đồng ý với việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông
đã khiếu nại Chủ tịch UBND thị H ban hành Quyết định giải quyết khiếu
nại (lần đầu) số 1507/QĐ-UBND ngày 29/6/2007 không chấp nhận khiếu nại
của ông. Ông tiếp tục khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ
tịch UBND thị H đến Chủ tịch UBND tỉnh Q đđược giải quyết theo thẩm
quyền.
Đến ngày 12/7/2022, thi hành Bản án số 27/2022/HC-ST ngày 04/5/2022
của TAND tỉnh Quảng Nam về việc “Buộc Chủ tịch UBND tỉnh Q giao Quyết
định số 252/QĐUBND ngày 16/01/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Q về việc giải
3
quyết khiếu nại của ông N”, Ban tiếp ng dân tỉnh Quảng Nam đã giao cho
ông N Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 (bản pho to chứng
thực ngày 11/7/2022).
Qua nghiên cứu ông nhận thấy Quyết định giải quyết khiếu nại số 252/QĐ-
UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Q không phù hợp với thực tế xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông.
Bởi việc UBND thị H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD
399551 ngày 12/12/2005 đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 33, diện tích
198,9m
2
cho ông Lê N là đúng pháp luật, phù hợp với quá trình giao đất, quản lý
sử dụng thực tế thửa đất nói trên. Tại Quyết định 252/QĐ-UBND cho rằng đã
cấp nhầm 64,6m
2
đất nằm trong phần diện tích đất của ông Nguyễn Tấn C cho
ông không đúng với thực tế. theo trình tự thời gian, diễn biến quá trình
giao đất, quản sử dụng đất thì thực tế UBND tỉnh Q đã lấy phần diện tích đất
64,6m
2
đã giao cho ông từ năm 1997 sau đó giao tiếp cho ông C vào năm
2003.
Cụ thể: Từ năm 1997 thực hiện chủ trương giao đất để ông làm nhà theo
diện sạt lở, UBND thị H UBND phường C đã giao thửa đất nói trên cho
ông. Sau khi ông làm nhà được 02 năm, đến ngày 31/12/1999, Sở địa chính
tỉnh Q cùng với chính quyền địa phương cũng đã lập biên bản xác định hiện
trạng ranh giới, mốc giới thửa đất số 19, tờ bản đồ số 33 thể hiện cụ thể các cạnh
thửa đất rất rõ ràng, có các chủ sử dụng đất liền kề tứ cận trong đó UBND
phường C tại Biên bản này đã xác định hiện trạng ranh giới sử dụng đất theo
đồ đo vẽ đúng không tranh chấp. Quá trình quản sử dụng thửa đất
này đến ngày 05/8/2000 ông đã làm Đơn đăng nhà đất được khối phố
UBND phường C xác nhận để ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, quá trình xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mãi đến
ngày 12/12/2005 ông mới được UBND thị H cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng số AD 399551 đối với thửa đất nêu trên hình thể và diện tích phù hợp
với thực tế hiện trạng sử dụng đất của ông từ năm 1997 Biên bản xác định
hiện trạng ranh giới, mốc giới thửa đất do Sở địa chính lập ngày 31/12/1999,
diện tích thửa đất này (198,9m
2
) nằm trong hạn mức giao đất, công nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của UBND tỉnh Q lúc bấy giờ.
Mặc dù, toàn bộ diện tích đất nêu trên gia đình ông đang trực tiếp sử dụng
từ năm 1997 nhưng không hiểu sao đến năm 2003 UBND tỉnh Q lại lấy
64,6m
2
nằm trong 198,9m
2
đất nêu trên cấp cho ông Nguyễn Tấn C. Thực tế,
toàn bộ diện tích đất từ trước đến nay không hề ông Nguyễn Tấn C nào quản
sử dụng mà người trực tiếp quản sử dụng ông, trên đất đang tồn tại nhà
cửa, vật kiến trúc của gia đình ông từ năm 1997 cho đến nay.
Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh
Q không công nhận nội dung khiếu nại của ông đối với Quyết định số 1507/QĐ-
UBND ngày 29/6/2007 của Chủ tịch UBND thị xã H không phù hợp với thực
tế, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông.
4
Do đó, ông Lê N khởi kiện yêu cầu Tòa án:
- Hủy Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Q về việc giải quyết khiếu nại của ông Lê N (lần hai);
- Hủy Quyết định số 1507/QĐ-UBND ngày 29/6/2007 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị H (nay UBND thành phố H) về việc giải quyết khiếu nại của
ông Lê N (lần đầu);
- Hủy Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 của Ủy ban nhân dân
thị xã H (nay là UBND thành phố H) về việc thu hồi và cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ ông Lê N.
Tại phiên đối thoại, tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền người
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện UBND thành phố H trình
bày:
Đối với các nội dung yêu cầu hủy các quyết định: Quyết định số 1507/QĐ-
UBND ngày 29/6/2007 của Chủ tịch UBND thị H (nay thành phố H) về
việc giải quyết khiếu nại của ông N (lần đầu) và Quyết định số 22/QĐ-
UBND ngày 18/01/2007 của UBND thị H (nay là thành phố H) về việc thu
hồi cấp lại Giấy chứng nhận quyền sdụng đất: Công dân đã đơn khiếu
nại Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 của UBND thị H (nay
thành phố H) về việc thu hồi cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Chủ tịch UBND thành phố H đã ban hành Quyết định số 1507/QĐ-UBND ngày
29/6/2007 về việc giải quyết khiếu nại lần đầu, theo đó không chấp nhận đơn
khiếu nại. Như vậy, khiếu nại của công dân đã được Chủ tịch UBND thành phố
giải quyết đảm bảo theo quy định của pháp luật, nội dung khởi kiện của công
dân là không có cơ sở để xem xét.
Năm 1997, khi Hội đồng xét cấp đất C xem xét giao đất cho ông N
diện tích 84m
2
, trong quá trình sử dụng, ông N cơi nới lên diện tích 198,9m
2
.
Khi đăng theo Nghị định số 60/CP năm 1998, phê duyệt năm 2000 thì diện
tích đất được cấp cho hộ ông N là 198,9m
2
. Khi thanh tra lại việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông N bà Nguyễn Thị P1 thì
phát hiện có sự chồng lấn một phần diện tích đã giao cho hộ liền kề ông Nguyễn
Tấn C nên UBND thị H (nay thành phố H), ban hành Quyết định số
22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 về việc thu hồi cấp lại Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất cho hộ ông N. Theo đó, UBND thị xã H cấp lại Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông N tại thửa đất số 19, tờ bản đồ số
33, diện tích 134,3m
2
loại đất đô thị, thời hạn sử dụng lâu dài (sau khi thu hồi
cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND phường đã thực hiện
việc chỉnh lý biến động trong hồ sơ địa chính của hộ ông Lê N).
Trong hcấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Tấn
C thì ông Lê N là hộ liền kề cũng có ký tứ cận.
Tại phiên đối thoại, tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị kiện UBND tỉnh Q trình bày:
5
Ông N khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày
16/01/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Q vviệc giải quyết khiếu nại của ông
N (lần hai) là không có cơ sở pháp lý, bởi vì:
Hộ ông N thuộc đối tượng sử dụng đất di dời do sạt lở, UBND phường
C, thành phố H, phối hợp với Phòng địa chính (nay Phòng T) thành phố H,
lập biên bản cắm mốc giao đất tái định ngày 10/11/1997 thửa đất số 5, diện
tích 84m
2
. Như vậy diện tích hộ ông Lê N được sử dụng là 84m
2
.
- Năm 2000, hộ ông Nl thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ngày 21/5/2001, Hội đồng xét giao đất phường C, thành phố H xét
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 96 hộ gia đình, cá nhân trên địa
bàn phường, trong đó hộ ông N. Kết quhọp không thống nhất xét giao
đất cho hộ ông Lê N vì không đủ điều kiện giao đất theo tinh thần Quyết định số
2312/QĐ-UB ngày 01/12/1997 của UBND tỉnh (do thừa diện tích q10% so
với hồ sơ gốc).
- Ngày 12/12/2005, UBND thị H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hộ ông N tại thửa đất số 19, tờ bản đồ số 33, diện tích 198,9m
2
loại
đất đô thị, thời hạn sử dụng lâu dài; việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của UBND thị H không đảm bảo quy định của pháp luật thực tế sử
dụng đất của hộ ông Lê N, lý do:
+ Diện tích 198,9m
2
đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ
ông N 64,6m
2
đất UBND tỉnh đã giao cho ông Nguyễn Tấn C tại
Quyết định số 5712/QĐ-UB ngày 25/12/2003.
+ UBND thị xã H đã căn cứ theo hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 2000; trong khi hồ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất năm 2000 đã được Hội đồng giao đất phường C họp xét không đủ điều
kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao đất theo tinh thần Quyết
định số 2312/QĐ-UB ngày 01/12/1997 của UBND tỉnh (do thừa diện tích quá
10% so với hồ sơ gốc).
Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 42 Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 15/5/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất
đai năm 2003 thì việc UBND thị xã H ban hành Quyết định số 22/QĐUBND
ngày 18/01/2007 thu hồi cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ
ông N đúng quy định của pháp luật thực tế sử dụng đất của hộ ông
N.
Từ những nội dung trên, khẳng định Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày
16/01/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc giải quyết khiếu nại của ông N
(lần hai) đúng quy định pháp luật. Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh bác nội dung khởi kiện của ông N đối với yêu cầu hủy Quyết định
số 252/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của Ch tịch UBND tỉnh.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 74/2023/HC-ST ngày 11 tháng 7 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
6
Căn cứ khoản 1 2 Điều 3; khoản 1 điểm a khoản 2 Điều 193, Điều
348 Luật tố tụng hành chính năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 42 Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ; khoản 1 Mục III Thông
01/2005/TT-BTNMT ngày 13/4/2005 của Bộ T; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án, xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông N về việc: Hủy Quyết định số
252/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q về việc
giải quyết khiếu nại của ông Lê N (lần hai); hủy Quyết định số 1507/QĐ-UBND
ngày 29/6/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã H (nay UBND thành
phố H) về việc giải quyết khiếu nại của ông N (lần đầu); hủy Quyết định số
22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 của Ủy ban nhân dân thị H (nay UBND
thành phố H) về việc thu hồi cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ ông Lê N.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn quyết định ván phí, quyền kháng cáo
nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/7/2023, ông Lê N có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện ông Lê N giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; đề nghị sửa Bản
án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện Luật sư Phạm
Văn N1 trình bày: Biên bản giao đất năm 1997 diện tích 84m
2
của UBND
phường C không hợp pháp, sau khi được giao đất ông N đã làm nhà
đóng thuế khai diện tích đất 198,9m
2
; đề nghị chấp nhận kháng cáo của ông
Lê N, sửa bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
phát biểu quan điểm như sau: Bản án thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông Lê N đúng pháp luật; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng
hành chính bác toàn bộ kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên quyết định
của Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu xem xét các tài liệu, chứng cứ tại hồ vụ án đã
được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa c
quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Lê N, thấy:
[1.1] Hộ gia đình ông N thuộc đối tượng sử dụng đất di dời do sạt lở
năm 1997. Nguồn gốc thửa đất tại vị trí ông N được giao theo Sổ Mục
bản đồ đo đạc ngày 15/01/1992 do nghiệp xây dựng khai tại thửa 353, tờ
bản đồ số 05, diện tích 2.134m
2
(BL 197-198). Tại Đơn xin cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất ngày 05/8/2000 của ông N (BL
7
200), Đơn đăng nhà đất năm 2000 (BL 201) ông N xin cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 19,
tờ bản đồ số 33, diện tích 198,9m
2
đất ở, có nguồn gốc sử dụng: “di dời theo ch
trương 1997” (BL 205-206). Tại biên bản về việc giao đất tái định cư cho hộ gia
đình nhân cho hộ ông N thửa đất số 19, tờ bản đồ số 33, tại tổ E, khu phố
B, phường C ngày 10/11/1997 (BL 165), hộ ông N được giao số 05
84m
2
. Như vậy diện tích hộ ông N được giao được quyền sử dụng khi
thực hiện chtrương di dời khỏi khu vực đất sạt lở năm 1997 84m
2
. Tháng
12/1997, hộ ông N tiến hành xây dựng nhà ở. Ngày 12/12/2005, UBND thị xã H
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông N tại thửa đất số 19, tờ
bản đồ số 33, diện tích 198,9m
2
loại đất ở đô thị; thời hạn sử dụng lâu dài. Ngày
18/01/2007, UBND thị H ban hành Quyết định số 22/QĐ-UBND thu hồi
cấp lại GCNQSD đất mới cho hông N: Thu hồi GCNQSD đất số phát
hành AD 399551, số vào sổ H 00201 đã cấp cho ông Lê N bà Nguyễn Thị P1
ngày 12/12/2005, do là diện tích đất ghi trong GCNQSD đất trùng với diện
tích đã giao cho hộ s dụng đất liền kề. Đồng thời, UBND thị H cấp lại
GCNQSD đất số AD 751814 cho ông Lê N bà Nguyễn Thị P1 (chết) thửa 19,
tbản đồ số 33, diện tích 134,3m
2
, loại đất đô thị. trong tổng diện tích đất
198,9m
2
đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông N 64,6m
2
đất mà UBND tỉnh đã giao cho ông Nguyễn Tấn C tại Quyết định số 5712/QĐ-
UB ngày 25/12/2003; Mặt khác, theo hồ giao đất theo chủ trương di dời khu
vực đất sạt lở năm 1997 thì diện tích đất hộ ông Lê N được giao là 84m
2
. Do đó,
Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 của UBND thị H (nay
thành phố H) thu hồi GCNQSD đất cấp ngày 12/12/2005 cho hộ ông N
cấp lại GCNQSD đất mới phù hợp với điểm a khoản 2 Điều 42 Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật
đất đai năm 2003 quy định về đính chính, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và khoản 1 Mục III Thông tư 01/2005/TT-BTNMT ngày 13/4/2005 của
Bộ T là có căn cứ.
[1.2] Xét yêu cầu hủy Quyết định số 1507/QĐ-UBND ngày 29/6/2007 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị H (nay UBND thành phố H) vviệc giải
quyết khiếu nại của ông N (lần đầu) Quyết định số 252/QĐ-UBND ngày
16/01/2008 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q về việc giải quyết khiếu nại
của ông Lê N, trú tại tổ E, khối phố B, phường C, thị xã H (lần hai) thì thấy: Do
UBND thị xã H ban hành Quyết định số 22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 thu hồi
cấp lại Giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho hộ ông N đúng quy
định của pháp luật thực tế sử dụng đất của hộ ông N nên Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị xã H (nay là UBND thành phố H) ban hành Quyết định số
1507/QĐ-UBND ngày 29/6/2007 về việc giải quyết khiếu nại của ông Lê N (lần
đầu) Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q ban hành Quyết định số 252/QĐ-
UBND ngày 16/01/2008 về việc giải quyết khiếu nại (lần 2) cho ông N
đảm bảo quyền lợi của hộ gia đình ông Lê N, đúng quy định pháp luật.
[2] Tòa án cấp sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện ông
N căn cứ đúng pháp luật. Tại Tòa án cấp phúc thẩm người khởi kiện
8
ông N kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới khác để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo sở. Do đó, Hội đồng xét xử bác
kháng cáo của ông Lê N, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Người khởi kiện ông N người cao tuổi nên được miễn
nộp án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, xử:
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông N giữ nguyên Bản án hành
chính thẩm số 74/2023/HC-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Nam.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ôngN về việc: Hủy Quyết định số
252/QĐ-UBND ngày 16/01/2008 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q về việc
giải quyết khiếu nại của ông Lê N (lần hai); hủy Quyết định số 1507/QĐ-UBND
ngày 29/6/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã H (nay UBND thành
phố H) về việc giải quyết khiếu nại của ông N (lần đầu); hủy Quyết định số
22/QĐ-UBND ngày 18/01/2007 của Ủy ban nhân dân thị H (nay UBND
thành phố H) về việc thu hồi cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ ông Lê N.
2. Về án phí hành chính:
Án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện ông Lê N được miễn nộp.
Án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện ông Lê N được miễn nộp.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Nam;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- Cục THADS tỉnh Quảng Nam;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trương Minh Tuấn
Tải về
96-2024-HC-PT-CAP-CAO-DA-NANG 96-2024-HC-PT-CAP-CAO-DA-NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất