Bản án số 897/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 897/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 897/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 897/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Thu T6 và yêu cầu kháng cáo của bị đơn - bà Trần Thị Ánh X, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 243/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO
TI THÀNH PH H CHÍ MINH
Bn án s: 897/2024/DS-PT
Ngày 30 tháng 9 m 2024
V/v tranh chp v quyn s hu và
các quyền khác đối vi tài sn
hu giy chng nhn quyn s
dụng đất.
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp T do Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CP CAO TI THÀNH PH H CHÍ MINH
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Bà Nguyn Th Ngc Hoa
Các thm phán: Ông Ngô Đức Th
Ông Dương Anh Văn
- Thư ký phiên tòa: Ông Phm Quang Hin - Thư ký Tòa án nhân dân cp cao
ti Thành ph H Chí Minh.
- Đại din Vin kim sát nhân dân cp cao ti Thành ph H Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Trần Đăng Ry - Kim sát viên.
Trong các ngày 27 và 30 tháng 9 năm 2024, tại tr s Tòa án nhân dân cp
cao ti Thành ph H Chí Minh xét x phúc thm công khai v án th s:
554/2024/TLPT-DS ngày 26 tháng 7 năm 2024 v việc “Tranh chấp v quyn s
hu và các quyền khác đối vi tài sn và hu giy chng nhn quyn s dng đất”.
Do Bn án dân s sơ thm s: 243/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 ca Tòa án
nhân dân thành ph H Chí Minh b kháng cáo.
Theo Quyết định đưa v án ra xét x phúc thm s: 2755/2024/QĐPT-DS
ngày 23 tháng 8 năm 2024 gia các đương s:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thu T, sinh năm: 1975.
Địa chỉ: 7 C P, Phường G, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
2. Bị đơn:Trần Thị Ánh X, sinh năm: 1979.
Địa chỉ: 7 B đường P, Phường G, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
3. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân quận P, Thành phố
Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
Người kháng cáo: Nguyên đơn - Nguyễn Thu T bị đơn - Trần Thị
Ánh X.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
- Tại Đơn khởi kiện ngày 15/01/2020, Đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/5/2022
ý kiến trình bày của nguyên đơn - Nguyễn Thu T trong suốt quá trình tham
gia tố tụng như sau:
Nguyễn Thu T chủ sở hữu nhà đất số G đường P, Phường G, quận P,
Thành phố Hồ Chí Minh (Viết tắt “nhà đất số G đường P”) theo Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở quyền sử dụng đất ở số 606/2007/UB-GCN do UBND
quận P cấp ngày 27/6/2007.
Nhà đất trên bà T nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Kim A vào nǎm 1998,
lúc đó tình hình an ninh trật tự tại đây rất phức tạp, thành phần nghiện hút, xì ke ma
túy thường tập trung về đây hút chích. Để đảm bảo sự an yên của gia đình
con lối xóm nên năm 2003 T đã xây lại hàng o kẽm gai phần đất sân trước
của nhà T bằng 1 bức tường gạch cao 1,5m, dài 5m, hai đầu xây cột tông
cốt thép, lúc đó các ch đất liền kề đều chấp thuận không tranh chấp, khiếu nại
gì (Bao gồm chủ cũ của nhà đất G đường P).
Suốt quá trình sử dụng từ đó đến nay bức tường bảo vệ vẫn tồn tại không
chuyện xảy ra. Đến năm 2016, Trần Thị Ánh X mua lại căn nhà G đường
P, Phường G, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Viết tắt “nhà đất số G đường
P”). Lúc đó gia đình X ra vào nhà bằng lối đi hiện hữu bên nhà của X, đến
năm 2018 nhà phía trước nhà X nhà số G do ông Nguyễn Thành H đứng tên
sở hữu, ông H xây nhà mới dẫn đến lối ra vào nhà của X bị hẹp lại, từ đó X
làm đơn khiếu nại yêu cầu bà T dỡ tường rào bà T xây dựng năm 2003 như nêu trên
nhằm để bà X mở rộng lối đi vào nhà X nhưng bà T không đồng ý.
Tuy nhiên, vào tháng 5/2019 X tự ý tháo dtường rào nêu trên của T
khi không được quan thẩm quyền giải quyết theo đúng quy định của pháp
luật. Việc làm của X là trái pháp luật và đã làm thiệt hại đến tài sản thuộc quyền
sở hữu hợp pháp của T. Do vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số
vào sổ cấp giấy chứng nhận số CS00541 do sở T8 cấp Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai cập nhật tên chủ sở hữu ngày 13/5/2016 cho bà X đối với nhà số G
đường P do ng nhận phần sở hữu, sử dụng bức tường rào kết cấu tường gạch
xi ng cao 1,5m, dài 10m, hai đầu xây cột tông cốt thép do T xây dựng
buộc X xây dựng lại bức tường rào kết cấu tường gạch xi măng cao
1,5m, dài 5m, hai đầu xây cột tông cốt thép tại phần đất sân trước nhà số G
đường P để trả lại tường rào cho T theo đúng hiện trạng bà T đã xây dựng. Bức
tường rào nêu trên có giá trị là 15.000.000 đồng.
Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thu T vẫn giữ nguyên ý kiến
yêu cầu khởi kiện; cụ thể: Yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất số CS00541 ngày 01 tháng
4 năm 2016 do sở Tài nguyên Môi trường Thành phố T8 cấp Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai quận P đã thực hiện đăng thay đổi cho bà Trần Thị Ánh
X vào ngày 13/5/2016 đã công nhận phần sở hữu, sử dụng bức tường rào kết
cấu tường gạch tô xi măng cao khoảng 1,5m, dài 10 m thuộc quyền sở hữu của T
cho bà X là không đúng; và buộc bà X xây dựng lại bức tường rào có kết cấu tường
gạch xi măng cao 1,7m, dài 3,27m, hai đầu xây cột tông cốt thép tại phần đất
sân trước nhà của T để trả lại tường rào cho T theo đúng hiện trạng T đã
3
xây dựng công nhận bức rào hiện hữu còn lại chiều dài 4,30m, chiều cao
1,7m của T. năm 2003 bà T đã bỏ tiền ra thuê vợ chồng Thị T1
ông Nguyễn Thành Đ xây dựng 02 bức tường trước nhà G P (Bức tường bên trái
dài 8m, cao 2m bức tường bên phải dài 3,5m cao 2m), bắt đầu thi công ngày
17/9/2003; lúc đó xây được sự chấp thuận của ông Bảy L chủ nhà 76/29 Phan y
H1; T người trả tiền công. Việc ông Nguyễn Thành H (con ông Bảy L) bà
T2 cho rằng Huỳnh Thị T3 người thuê người xây dựng không đúng. T
không cung cấp được hóa đơn mua vật liệu xây dựng T nhờ thợ xây kêu vật
liệu. Bức tường xây dựng trên phần diện tích đất chưa được nhà nước công nhận
cho bà T, phần tường hiện hữu nằm giữa bức tường nhà của bà T và bà X.
- Tại đơn phản tngày 12/5/2022 của bị đơn - Nguyễn Thị Ánh X1 ý
kiến trình bày của bà X1 trong quá trình tham gia tố tụng như sau: Bà có đơn phản
tố yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản gắn liền với đất hồ sơ gốc số 606/2007/UB-GCN ngày 27/6/2007 do UBND
quân P cấp, phần đất mà T được cấp đã chồng lấn lên phần diện tích đất của
của X1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản
gắn liên với đất số vào sổ cấp GCN số 606/2007/UB-GCN ngày 27/6/2007 do
UBND quận P cấp. Ngày 12/5/2023, Trần Thi Ánh X2 đơn xin rút đơn phản
tố. Bà X2 không đồng ý với yêu cầu của bà T vì không có căn cứ.
Tại phiên tòa thẩm, X2 trình bày không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của T phần tường rào T tranh chấp không phải T xây dựng không
nằm trên phần đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng của T; giữ nguyên việc rút yêu
cầu phản tố, không yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà số 606 ngày 27/6/2007 của UBND quận P cấp cho T; đề nghị Hội
đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến trình bày của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan - UBND quận P
tại Văn bản số 1610/UBND-TNMT ngày 27/12/2022 như sau:
Nhà đất số G (Số cũ 98/4) đường P có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn G và bà
Nguyễn Kim A đứng sở hữu theo Giấy hợp thức hóa quyền sở hữu nhà số
374/HTHSH-UB ngày 06 tháng 10 nǎm 1992 của UBND quận P, diện tích 39,4m
2
.
Ngày 13 tháng 3 năm 2000, bà Nguyễn Kim A và các đồng thừa kế chuyển nhượng
một phần căn nhà trên cho bà T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở
số 17850/HÐ-MBN tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1 Thành phố H; diện tích
chuyển nhượng 38,55m
2
. Ngày 16 tháng 7 năm 2003, UBND quận P ban nh
Quyết định số 4238/QĐ-UB-QLĐT vviệc đổi số nhà I P thành số nhà mới G
đường P cho T. Năm 2004, bà T xây dựng nhà theo Giấy phép xây dựng số
222/GPXD ngày 22 tháng 3 năm 2004 do UBND quận P cấp. Năm 2007, theo Đơn
đề nghị cấp mới giấy chứng nhận của T xác nhận ngày 24 tháng 5 nǎm 2007
của U, quận P căn nhà trên không tranh chấp, khiếu nại. Ngày 23 tháng 5 nǎm
2007, bà T có Đơn tường trình về phần diện tích đất 5,95m
2
tăng thêm có xác nhận
không tranh chấp ngày 25 tháng 5 nǎm 2007 của U. Đến ngày 27 tháng 6 năm
2007, UBND quận P đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất số 606/2007/UB-GCN cho T với diện tích 44,50m
2
, diện tích sàn
156,8m
2
; việc cấp Giấy chứng nhận cho bà T được thực hiện đúng pháp luật đất đai
tại thời điểm cấp.
4
Liên quan đến nội dung của bị đơn là bà X2 đề nghị Tòa hủy Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 606/2007/UB-GCN ngày 27 tháng 6
năm 2007 do UBND quận P cấp được quy định tại Điều 106 của Luật Đất đai ngày
29 tháng 11 năm 2013 Điều 87 Nghị định số 43/2014/ND-CP ngày 15 tháng 5
năm 2014 của Chính Phủ; đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định pháp luật.
quan thẩm quyền sẽ thực hiện xác nhận đăng biến động hoặc cấp, hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất theo kết quả tại quyết định hoặc bản án của Tòa án khi có hiệu lực thi hành.
Theo thông tin của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai quận P năm 2020, căn
nhà trên hiện đang thế chấp tại Ngân hàng TMCP Á, số thứ tự đăng 4897 ngày
09 tháng 10 nǎm 2020, chưa đăng ký xóa thế chấp.
Đối với nhà đất G đường P nguồn gốc do ông Nguyễn Văn L1
Nguyễn Thị B (Chết năm 1984) đứng sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sở hu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 2937/2003 ngày 24 tháng 11 năm 2003 do UBND
quận P cấp diện tích 192,30m
2
. Căn nhà trên được tách thành 03 phần theo Bản vẽ
sơ đồ nhà đất được UBND quận P kiểm tra ngày 07 tháng 11 nǎm 2005. Năm 2005,
ông Nguyễn Văn L1, ông Nguyễn Thành H, ông Nguyễn Thanh D tặng cho một
phần căn ntrên cho Nguyễn Thị Thanh T4 (Viết tắt “bà T4”) theo Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở, số 34540/HĐ-TCN ngày 21 tháng 12
năm 2005 tại Phòng C Thành phố Hồ Chí Minh diện tích 37,50m
2
; phần nhà này
được UBND quân P cấp số nhà mới là G đường P theo Quyết định cấp số nhà số B-
UBND ngày 13 tháng 01 năm 2006; T4 được UBND quận P đã cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số H00505 ngày 12 tháng 4 nǎm 2006. Đến năm
2014, bà T4 chuyển nhượng căn nhà trên cho Nguyễn Thị Hồng Ð theo Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) số 009278
ngày 01 tháng 7 nǎm 2014 tại Văn phòng C, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 01
tháng 4 năm 2016, sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố T8 đã cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
CS00541 cho ông Huỳnh Ngọc T5 Nguyễn Thị Hồng Ð. Ngày 23 tháng 4
nǎm 2016, ông Huỳnh Ngọc T5 và bà Nguyễn Thị Hồng Ð bán căn nhà trên cho bà
X2 theo Hợp đồng mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất số 007005 tại Văn phòng Công chứng Phú Nhuận Thành phố H. Và Chi
nhánh Văn phòng Đăng đất đai quận P đã thực hiện đăng thay đổi cho
Trần Thị Ánh X vào ngày 13/5/2016.
Liên quan đến tranh chấp bức tường giữa T5 (Chủ nhà G P) X (Chủ
nhà G P) đã được UBND Phường 7, các ngành quan chuyên môn giải quyết
nhiều lần nhưng hai bên không đạt được sự đồng thuận. Tại đồ thuộc mục II
Giấy chứng nhận số 606/2007 ngày 27 tháng 6 năm 2007 do UBND quận P cấp cho
T5 không thể hiện phần tường bà T5 đang tranh chấp với X thuộc ch
quyền của T5. Từ căn cứ nêu trên, UBND quận P nhận thấy, việc T5 Đơn
khiếu nại UBND quận cấp Giấy chứng nhận choX lấn vào đất gia đình bà T5
không có cơ sở. Do đó, ngày 27 năm 6 nǎm 2019 UBND quận P đã có Công văn s
255/UBND-TNMT trả lời đơn cho bà T5.
Ý kiến của Sở Tài nguyên và Môi Trường Thành phố T8: Căn nhà số G đường
P có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn L1Nguyễn Thị B (Chết năm 1984) đứng
5
sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số
2937/2003 ngày 24 tháng 11 năm 2003 do UBND quân P cấp diện tích 192,30m
2
.
Căn nhà trên được tách thành 03 phần theo Bản vẽ sơ đồ nhà đất đuợc UBND quận
P kiểm tra ngày 07 tháng 11 nǎm 2005. Năm 2005, ông Nguyễn Văn L1, ông
Nguyễn Thành H, ông Nguyễn Thanh D tặng cho một phần căn nhà trên cho
Nguyễn Thị Thanh T4 (Viết tắt “bà T4”) theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sở hữu nhà ở, số 34540/-TCN ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Phòng C Thành
phố Hồ Chí Minh diện tích 37,50m
2
; phần nhà này được cấp số nhà mới G P,
Phường G, quân P theo Quyết định cấp số nhà số 24/-UBND ngày 13 tháng 01
năm 2006 của UBND quân P; T4 được UBND quận P đã cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số H00505 ngày 12 tháng 4 nǎm 2006. Đến năm 2014,
T4 chuyển nhượng căn nhà trên cho bà Nguyễn Thị Hồng Ð theo Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất (Có tài sản gắn liền với đất) số 009278 ngày 01 tháng 7
nǎm 2014 tại Văn phòng C, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 01 tháng 4 năm 2016,
sở Tài nguyên Môi trường Thành phố T8 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CS00541 cho ông
Huỳnh Ngọc T5 Nguyễn Thị Hồng Ð (Cấp đổi từ Giấy chứng nhận số
H00505 ngày 12 tháng 4 nǎm 2006 của UBND quân P). Ngày 23 tháng 4 nǎm
2016, ông Huỳnh Ngọc T5 Nguyễn Thị Hồng Ð bán căn nhà trên cho X
theo Hợp đồng mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất số 007005 tại Văn phòng Công chứng Phú Nhuận Thành phố H. Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận P đã thực hiện đăng ký thay đổi sau khi cấp
Giấy chứng nhận số CS00541 ngày 01/4/2016 cho Trần Thị Ánh X vào ngày
13/5/2016. Việc thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số CS00541 ngày 01 tháng 4 nǎm 2016 (cấp
đổi từ Giấy chứng nhận số H00505 ngày 12 tháng 4 năm 2006 của UBND quận P)
đăng ký cập nhật thay đổi chủ sở hữu trên Giấy chứng nhận đã cấp đối với căn
nhà số G P, Phường G, quân P đúng quy định. Liên quan đến các nội dung yêu
cầu khác, Chi nhánh Văn phòng Ðăng đất đai quận P không ý kiến. Đề nghị
Tòa án nhân dân căn c quy định pháp luật giải quyết.
Tòa án cấp thẩm đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/5/2023
ghi nhận hiện trạng bức tường tranh chấp cthể như sau: Phần tường rào nhìn từ
hẻm G đường P đến vị trí tường tranh chấp vị trí bên tay phải nhà G P (tức bên
tay trái nhà G P) phần tường rào đã bị tháo dỡ có chiều dài (Tính từ trụ cổng trở
ra đường hẻm 3,27m. Phần tường rào hiện hữu tính tcổng trở vào trụ nhà
chiều dài 4,30m, chiều cao 1,7m”.
Theo kết quả thẩm đnh giá tại chứng thư thẩm định giá số 023131023/CT-
TVV tháng 11-2023 của Công ty TNHH T9 thì phần tường rào bị tháo dỡ có giá trị
3.099.960 đồng; tường rào ở vị trí bên trái trước cổng nhà T5 số G P, Phường G,
quận P có giá trị 1.579.368 đồng; tổng cộng là 4.679.328 đồng.
Tại bản án dân sự thẩm số 243/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thu T về việc hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất
số CS00541 ngày 01 tháng 4 năm 2016 do sở Tài nguyên và Môi trường Thành ph
6
T8 cấp và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận P đã thực hiện đăng ký thay
đổi cho bà Trần Thị Ánh X vào ngày 13/5/2016; buộc bà X xây dựng lại bức tường
rào tô xi măng cao 1.7 m, chiều dài 3.27 m hai đầu xây cột bê tông cốt thép tại phần
đất sân trước nhà số G đường P để trả lại tường rào theo đúng hiện trạng T đã
xây dựng và công nhận bức rào hiện hữu còn lại chiều dài 4.30 m, chiều cao 1.7
m là của bà T.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của Trần ThÁnh X về việc hủy
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 606/2007/UB-GCN
ngày 27/6/2007 của UBND quận P cấp cho bà Nguyễn Thu T.
3. Về lệ phí chi phí tố tụng: Số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng
Nguyễn Thu T phải chịu; bà Nguyễn Thu T đã nộp đủ chi phí tố tụng.
4. Về án phí dân sự thẩm: Số tiền 600.000 đồng Nguyễn Thu T phải
chịu theo quy định của pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ng án phí
300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2021/0029453 ngày 19/5/2022 số tiền 375.000 đồng đã nộp theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0042582 ngày 07/02/2020 Chi cục
thi hành án quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trả lại cho bà Nguyễn Thu T số tiền 75.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0042582 ngày 07/02/2020 Chi cục thi hành án quận
Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trả lại cho bà Trần Thị Ánh X số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0029460 ngày 23/5/2022 Chi cục thi hành án
quận Phú Nhuận
Ngoài ra bản án thẩm còn quyết định về quyền kháng cáo của đương sự
theo quy định của pháp luật.
- Ngày 04/5/2024, bị đơn Trần Thị Ánh X kháng cáo một phần bản án
thẩm, cho rằng án thẩm không phân xử v đoạn vách tường thuộc quyền sử
dụng, sở hữu của bà đã được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CC889865 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố T8 cấp cho bà.
- Ngày 09/5/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị Thu T6 kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu kháng cáo; bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các bên đương sự không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Nguyên đơn Nguyễn Thị Thu T6 trình bày nội dung kháng cáo: T6
kháng cáo yêu cầu sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà. Lý do phần bức tường rào có kết cấu tường gạch tô xi măng cao 1,5m,
dài 5m hai đầu xây cột bê tông cốt thép do bà xây dựng từ năm 2003. Quá trình sử
dụng suốt 20 năm qua nhiều đời chủ nhà liền kề trước đó không ai tranh chấp
hay khiếu nại gì. Đến năm 2019, X chủ nhà G P, Phường G, quận P mua lại nhà
đất trên đã tự ý tháo dỡ tường rào nêu trên của không được sự cho phép của
7
quan thẩm quyền trái pháp luật. Do đó, việc Tòa án cấp thẩm bác yêu cầu
khởi kiện của bà là trái pháp luật.
- Bị đơn - Trần Thị Ánh X trình bày nội dung kháng cáo: Nđất số G P,
Phường G, quận P do mua của ông Huỳnh Ngọc T5 Nguyễn Thị Hồng Ð
vào nǎm 2016, đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận P đã thực hiện
đăng thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận số CS00541 ngày 01/4/2016 cho bà
vào ngày 13/5/2016. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số CS00541 ngày 01 tháng 4 nǎm 2016 (cấp
đổi từ Giấy chứng nhận số H00505 ngày 12 tháng 4 năm 2006 của UBND quận P)
đăng ký cập nhật thay đổi chủ sở hữu trên Giấy chứng nhận đã cấp đối với căn
nhà số G P, Phường G, quân P là đúng quy định. Bức tường nguyên đơn tranh chấp
được xây trên sân chung của hai nhà 76/29B và nG P, không thuộc quyền sở hữu
của ai. Trước khi ra tòa hai bên đã tranh chấp U UBND quận P, các
quan chức năng đã giải quyết xác định đúng. Năm 2018, bà mới đập bức tường
trên. Việc T5 cho rằng đã đập bức tường trên của T5 nhưng T5 không
có chứng cứ chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
T5, chấp nhận kháng cáo của bà.
Tại phần tranh luận: Các bên đương sự vẫn giữ nguyên ý kiến, quan điểm
như đã trình bày trên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
+ Về tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, Chủ tọa, Thư ký và Hội đồng xét xử
đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố
tụng đã được thực hiện đúng, đầy đủ quyền nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự.
+ Về nội dung: Căn cứ tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và Tòa án
thu thập. sở xác định bản án thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn và đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn do rút đơn là đúng qui định
của pháp luật. Nguyên đơn bị đơn đều kháng cáo nhưng không chứng minh
được yêu cầu kháng cáo cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, vắng mặt
người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND Quận
P. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xét
xử vắng mặt UBND Quận P.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thu T6 yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm sửa án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà,
Hội đồng xét xử xét thấy:
8
[2.1] Căn cứ Hợp đồng mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài
sản khác gắn liền với đất số 007005 ngày 23/4/2016 giữa ông Huỳnh Ngọc T5
Nguyễn Thị Hồng Đ1 với Trần Thị Ánh X đối với nhà đất số G đường P
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn
liền với đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CS00541 ngày 01/4/2016 do sở T8
cấp; đến ngày 13/5/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai quận P cập nhật
thay đổi tên chủ sở hữu cho X phù hợp với quy định tại Điều 79 của Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 25/5/2014 của Chính phủ về trình tự, thủ tục chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, góp vốn bằng quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu gắn liền với đất.
[2.2] Việc nguyên đơn - T5 cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CS00541 do sở T8 cấp
ngày 01/4/2016; đến ngày 13/5/2016 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận P
cập nhật thay đổi tên chủ sở hữu cho X đã cho phép X trổ cửa qua phần đất
trước sân nhà T5 công nhận phần sở hữu, sử dụng bức ờng rào có kết cấu
tường gạch tô xi măng cao 1,5m dài 10 m là không đúng làm ảnh hưởng đến quyền
lợi ích hợp pháp của bà nên yêu cầu Tòa án tuyên hủy giấy chứng nhận nêu
trên của bà X.
[2.3] Tuy nhiên, lời khai của T5 tại phn tòa thẩm cũng xác định, phần
đất mà bà X trổ cửa ra là phần đất bà T5 không được nhà nước công nhận quyền sử
dụng riêng, phần đất này diện tích sử dụng chung bức tường đang tranh chấp
nằm trên phần đất chưa được nhà nước giao cho bà X hay bà T5 sử dụng riêng.
[2.4] Căn cứ vào hồ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử
dụng đất đối với nhà đất số G đường P thể hiện phần diện tích nhà, đất nêu trên
không có sự biến động về diện tích và hiện trạng qua các lần chuyển nhượng từ ông
Nguyễn Văn L1, ông Nguyễn Văn H2ông Nguyễn Thanh D với Nguyễn Thị
Thanh T4 ; từ Nguyễn Thị Thanh T4 bán cho Nguyễn Thị Hồng Đ1 từ vợ
chồng ông Huỳnh Ngọc T5 Nguyễn Thị Hồng Đ1 với bà X (Theo Hợp đồng
mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số
công chứng 0007005 ngày 23/4/2016 lập tại Văn phòng C).
[2.5] Từ những tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bên đương sự, người làm
chứng đã phân tích trên, có cơ sở xác định nhà số G C P (Nhà bà T5) và nhà số G P
(Nhà X) đều tường riêng; phần tường rào chiều dài 4,30 m, chiều cao 1,7
m nằm giữa hai bức tường nhà không thuộc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
quyền sử dụng đất số 606/2007/UB-GCN ngày 27 tháng 6 năm 2007 do
UBND quận P cấp cho T5 và cũng không thuộc giấy chứng nhận UBND
quận P cấp cho Đ1 ngày 01/4/2016 cập nhật biến động ngày 13/5/2016 cho bà
X; Giấy chứng nhận số 606/2007 ngày 27 tháng 6 năm 2007 do UBND quận P cấp
cho T5; phần tường rào này được xây dựng không phép trên phần đất sử dụng
chung; đất không được công nhận cho T5 tường chung phải tháo dỡ khi
yêu cầu.
[2.6] Căn cứ Giấy phép xây dựng số 222/GPXD do UBND quận P cấp và Bản
vẽ xây dựng nhà được UBND quận P duyệt đính theo ngày 22/3/2004 thể hiện
T5 được phép xây dựng nhà tại địa chỉ số G P trên thửa đất số 108 tờ bản đồ 32
diện tích 38,55m
2
; “Sân trước 50m
2
sử dụng chung giữa hai nhà số I 98/4” (nay
9
là nhà G P và nhà G); phần tường rào cao 1,7m dài 3,27m mà bà T5 cho rằng do bà
T5 xây dựng trên phần diện tích đất này theo kết quả thẩm đnh tại chỗ ngày
29/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh lời khai thống nhất của
các bên đương sự thể hiện hiện nay phần tường rào này đã bị tháo dỡ và không còn
tồn tại. T5 không chứng minh được việc xây dựng tường rào được cơ quan
thẩm quyền cho phép trên phần diện tích sân sử dụng chung; do vậy, không n
c xác định được bà T5 người xây bức tường tranh chấp.
[2.7] Vý kiến của đại diện UBND quận P cũng khẳng định liên quan đến
tranh chấp bức tường giữa T5 (Chủ nhà G P) X (Chủ nhà G P) đã được
UBND Phường 7, các nghành cơ quan chuyên n giải quyết nhiều lần nhưng
hai bên không đạt được sự đồng thuận. Tại sơ đồ thuộc mục II Giấy chứng nhận số
606/2007 ngày 27 tháng 6 năm 2007 do UBND quận P cấp cho bà T5 không thể
hiện phần tường T5 đang tranh chấp với X thuộc chủ quyền của bà T5.
Do đó, việc T5 Đơn khiếu nại UBND quận cấp Giấy chứng nhận cho X
lấn vào đất gia đình T5 không sở nên ngày 27 năm 6 nǎm 2019 UBND
quận P đã có Công văn số 255/UBND-TNMT trả lời đơn cho bà T5.
[2.7] Đối với các lời khai, trình bày của bà Thị T1, ông Nguyễn Thành H
Huỳnh Thị T3 liên quan đến việc xây bức tường rào chỉ những tài liệu
tham khảo về nguồn gốc nh thành bức tường; cho dù T5 hay T7 xây dựng
tường thì bức tường rào đang tranh chấp đã được xây dựng không phép trên
phần đất sân sử dụng chung không được công nhận quyền shu cho T5, cũng
không công nhận sở hữu cho X.
[2.8.] Từ sự phân tích trên, không sở chấp nhận yêu cầu của T5 về
việc buộc X phải xây dựng lại phần tường rào trên phần đất sử dụng chung.Tòa
án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T5 căn cứ đúng
pháp luật.
[3] Đối với bđơn - Trần Thị Ánh X tại cấp thẩm chỉ Đơn phản tố
yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở quyền sử dụng đất số
606/2007/UB-GCN ngày 27/6/2007 của UBND quận P cấp cho bà Nguyễn Thu T6,
ngoài ra không có yêu cầu phản tố nào khác. Tại phiên tòa sơ thẩmX đã rút yêu
cầu phản tố nên Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của
X tiếp tục giải quyết yêu cầu khởi kiện của T6 đúng qui định tại Điều 217
của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay X kháng o cho rằng bản án thẩm không
giải quyết về đoạn bức tường thuộc quyền sử dụng, sở hữu của vượt quá yêu
cầu khởi kiện ban đầu của nguyên đơn, chưa được Tòa án cấp thẩm thụ lý, gii
quyết nên không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm
không xét.
[4] Từ những sở phân tích từ mục [2] đến mục [3], sở xác định bản
án thẩm đã giải quyết đúng pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự
kháng cáo không cung cấp được thêm tài liệu, chứng cứ nào mới làm thay đổi bản
chất vụ án như đã phân tích trên. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn và kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên
10
đơn, bị đơn, giữ nguyên bản án thẩm. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát phù
hợp với chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, được chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận
nên các đương sự kháng cáo nguyên đơn, bị đơn phải chịu án pdân sự phúc
thẩm theo qui định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14,
ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về việc thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phía Tòa án.
[7] Các phần khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị, Hội
đồng xét xử không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều
29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về việc thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phía Tòa án;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn - Nguyễn Thị Thu
T6 yêu cầu kháng cáo của bị đơn - Trần Thị Ánh X, giữ nguyên bản án dân
sự sơ thẩm số 243/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh.
1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thu T6 về việc hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền
với đất số CS00541 ngày 01 tháng 4 năm 2016 do sở Tài nguyên Môi trường
Thành phố T8 cấp Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai quận P đã thực hiện
đăng ký thay đổi cho Trần Thị Ánh X vào ngày 13/5/2016; buộc X xây dựng
lại bức tường rào xi măng cao 1.7 m, chiều dài 3.27 m hai đầu xây cột tông
cốt thép tại phần đất sân trước nhà số G đường P để trả lại tường rào theo đúng hiện
trạng T6 đã xây dựng công nhận bức rào hiện hữu còn lại chiều dài 4.30
m, chiều cao 1.7 m là của bà T6.
1.2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của Trần Thị Ánh X về việc hủy
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà quyền sử dụng đất số 606/2007/UB-GCN
ngày 27/6/2007 của UBND quận P cấp cho bà Nguyễn Thu T6.
1.3. Vlệ phí chi phí tố tụng: Số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng
Nguyễn Thu T6 phải chịu; bà Nguyễn Thu T6 đã nộp đủ chi phí tố tụng.
1.4. Về án pdân sự thẩm: 600.000 đồng Nguyễn Thu T6 phải chịu
theo quy định của pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ng án phí 300.000
đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0029453
ngày 19/5/2022 và số tiền 375.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số AA/2017/0042582 ngày 07/02/2020 Chi cục thi hành án quận Phú
Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
11
Trả lại cho Nguyễn Thu T6 số tiền 75.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0042582 ngày 07/02/2020 Chi cục thi hành án
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trả lại cho bà Trần Thị Ánh X số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0029460 ngày 23/5/2022 Chi cục thi hành án
quận Phú Nhuận
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thu T6 và bà Trần Thị Ánh X mỗi
người phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án
phí dân sự phúc thẩmT6 và bà X đã nộp theo các Biên lai thu số 0004374 ngày
22/5/2024, 0004373 ngày 22/5/2024 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Trưng hp bn án, quyết định thi nh theo quy định tại Điều 2 Lut thi
hành án dân s (sửa đổi, b sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phi
thi hành án dân s quyn tha thun thi hành án, yêu cu thi nh án, t nguyn
thi hành án hoc b ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Lut thi hành án dân s (sa đổi, b sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thc
hin theo quy định ti Điu 30 Lut thi hành án dân s (sa đi, b sung năm 2014).
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân ti cao;
- VKSND cp cao ti TP. H C Minh;
- Tòa án nhân dân TP. H Chí Minh;
- VKSND TP. H Chí Minh;
- Cc THADS TP. H Chí Minh;
- Các đương sự;
- Lưu VP , lưu hồ sơ, PQH.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Nguyn Th Ngc Hoa
Tải về
Bản án số 897/2024/DS-PT Bản án số 897/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 897/2024/DS-PT Bản án số 897/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất