Bản án số 866/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 866/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 866/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 866/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần kháng cáo của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là bà Võ Ngọc D; Chấp nhận kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Kim P và ông Lý Văn N;
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 866/2024/DS-PT
Ngày: 27/9/2024
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu
cầu vô hiệu văn bản phân chia di sản
thừa kế, vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có :
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Công
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 20 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân s thụ lý số:
02/2024/TLPT-DS ngày 09 tháng 01 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất, yêu cầu hiệu văn bản phân chia di sản thừa kế, hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 74/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh LA bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2777/2024/QĐ-PT
ngày 30 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thanh T, sinh năm 1975 (vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã M, huyện Đ, tỉnh LA.
Người đại diện theo ủy quyền của T: Ông Văn V, sinh năm 1957 (có
mặt);
2
Địa chỉ cư trú: Khu phố B, Phường D, thành phố T, tỉnh LA.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của T: Luật Nguyễn Hoàng
L - Văn phòng L1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt, vắng mặt lúc tuyên án);
- Bị đơn: Ông Võ Văn Q, sinh năm 1930 (chết năm 2021);
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của ông Q: Ngọc D, sinh
năm 1963 (vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã A, huyện Đ, tỉnh LA.
Người đại diện theo uỷ quyền của D: Đoàn Thị Thiên Thanh T1,
sinh năm 1975 (vắng mặt);
Địa chỉ trú: Số A, tỉnh lộ 8, Khu phố B, thị trấn C, huyện C, Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Kim P, sinh năm 1970 (vắng mặt);
2. Ông Lý Văn N, sinh năm 1970 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp C, xã Đ, huyện C, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo y quyền của P, ông N: Thị Thanh T2 (theo
giấy ủy quyền ngày 29/03/2024) (có mặt);
Địa chỉ: Số D P, Phường G, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Bà Nguyễn Thanh H, sinh năm 1963 (vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã M, huyện Đ, tỉnh LA.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Bà Võ Bích T3, sinh năm 1992 (có
mặt);
Địa chỉ: Số A, Khu phố D, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1967 (vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã A, huyện Đ, tỉnh LA.
Người đại diện theo ủy quyền của C: Ông Thái Hoàng D1, sinh năm
1990 (Theo hợp đồng ủy quyền ngày 03/4/2024) (vắng mặt);
Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã B, huyện Đ, tỉnh LA.
5. Văn phòng C3 (được chuyển đổi từ Văn phòng C3) (vắng mặt);
Địa chỉ trụ sở: Ô khu B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh LA.
6. Văn phòng C3 (vắng mặt);
Địa chỉ trụ sở: 117, Khu phố C, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh LA.
7. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh LA
3
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh N1 - Chức vụ: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện Đ (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ ttụng của bđơn
Ngọc D, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh H,
Nguyễn Kim P và ông Lý Văn N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo Đơn phản tngày 03/02/2021, Đơn khởi kiện ngày 09/3/2021, Đơn
xin xác định lại người bị kiện ngày 30/8/2023, lời trình y ti các biên bản
tại phiên tòa, nguyên đơn Nguyễn Thanh T người đại diện theo ủy quyền
là ông Võ Văn V trình bày có nội dung như sau:
Ông Nguyễn Văn R (sinh năm 1926, chết năm 2012) vợ là Thị H1
(sinh năm 1938, chết năm 2020) 05 người con chung là Nguyễn Thị N2,
Nguyễn Thị N3, Nguyễn Thị G, Nguyễn Văn T4 (chết năm 2015, vợ là
Huỳnh Thị T5) và Nguyễn Thanh T.
Năm 1975, ông R khai hoang được một số thửa đất (có một số người dân
địa phương làm chứng) đến năm 1985, ông R cho T một phần đất nay là thửa
2174, diện tích 6.154m
2
(đo đạc thực tế khu B diện tích 6.002,4m
2
), tờ bản đồ số
3, đất tại M, huyện Đ, tỉnh LA. Trước khi cho T tông R trồng lúa, sau
khi nhận đất tT trồng dưa cho đến nay. Việc ông R cho bà T đất không lập
thành văn bản nhưng các chị em trong nhà đều biết văn bản xác nhận. Sau
này T phát hiện ông Văn H2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (viết tắt GCNQSDĐ), sau khi ông H2 chết thì ông Văn Q khai nhận
thừa kế, ông Q chết để lại di chúc cho Nguyễn Kim P, P chuyển nhượng
đất cho Nguyễn Thanh H nhưng thực tế các ông này không trực tiếp quản
lý, sử dụng đất mà do T đang quản lý, sử dụng đất. Đối với c biên bản họp
họ tộc vào năm 2006 thì bà T không thừa nhận.
Do đó, nay T khởi kiện xác định lại yêu cầu Toà án giải quyết các
vấn đề sau:
- hiệu một phần Văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày 01/12/2006
do Phòng C4 tỉnh LA công chứng đối với phần thừa kế quyền sử dụng đất thửa
2174 của ông Võ Văn H2 cho ông Võ Văn Q;
- Hủy một phần Quyết định số 134/QĐ.UB ngày 02/6/1997 của Ủy ban
nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện Đ về việc cấp GCNQSDĐ cho ông
Võ Văn H2 đối với thửa 2174;
- Hủy một phần GCNQSDĐ do UBND huyện Đ cấp cho ông Văn H2
ngày 05/5/1998 đối với thửa 2174;
- hiệu Di chúc chia thừa kế quyền sử dụng đất ngày 05/02/2021 do
Phòng C5 công chứng đối với phần chia thừa kế quyền sử dụng đất thửa 2174
của ông Q với bà Nguyễn Kim P;
4
- Hủy GCNQSDĐ do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp cho
Nguyễn Kim P ngày 14/02/2022 đối với thửa 2174;
- hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tắt
HĐCNQSDĐ) giữa bà P với bà Nguyễn Thanh H đối với thửa đất 2174;
- Hủy GCNQSDĐ đã cấp cho bà Nguyễn Thanh H đối với thửa 2174;
- Công nhận quyền sử dụng đất thửa 2174 cho bà Nguyễn Thanh T.
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Văn Q là
Ngọc D do Đoàn Thị Thiên Thanh T1 người đại diện theo uỷ quyền trình
bày trong quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau:
Ông Văn H2 (chết năm 2000), vợ là Nguyễn Thị Y (chết năm 1945)
02 người con Thị P1 ông Văn Q. Năm 1998, ông H2 được
UBND huyện Đ cấp GCNQSDĐ đối với 45 thửa đất, với tổng diện tích
148.603m
2
, trong đó thửa 2174 theo Quyết định số 134/QĐ-UB ngày
02/6/1997 của UBND huyện Đ. Sau khi ông H2 chết không để lại di chúc,P1
văn bản từ chối nhận di sản nên ông Q đã khai được UBND huyện Đ
cấp GCNQSDĐ vào ngày 04/9/2007.
Ngày 08/10/2018, ông Q đã chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất nêu
trên, trong đó thửa 2174 cho Nguyễn Kim P với số tiền 700.000.000đ,
thanh toán làm 02 đợt. Do bà T khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu huỷ
GCNQSDĐ của ông Q đất thuộc dự án làm đường nên ông Q không thể làm
thủ tục sang tên chuyển nhượng cho P. Đối với khiếu kiện của T về yêu
cầu hủy quyết định cấp GCNQSDĐ thửa 2174 cho ông Văn H2, ông Võ Văn
Q đã được Tòa án nhân nhân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết
bằng Bản án số 748/2020/HC-PT ngày 17/12/2020 với nội dung đình chỉ giải
quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện. Do ông Q đã nhận tiền nhưng chưa hoàn
tất thủ tục sang tên cho P nên ngày 05/02/2021, hai bên đã thoả thuận chuyển
nhượng bằng hình thức ông Q lập di chúc để lại cho bà P. Ngày 27/02/2021, ông
Q chết, P khai thừa kế theo di chúc nên thời điểm này thủ tục chuyển
nhượng giữa ông Q với vợ chồng bà P đã hoàn tất.
Bà D là con duy nhất của ông Q. Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất
thì D không nắm được nên không thể trình bày. Hiện tại đất không thuộc
quyền quản lý sử dụng của D, không liên quan đến D nên các yêu
cầu khởi kiện của T thì D không đồng ý. Trường hợp Toà án giải quyết
chấp nhận yêu cầu khởi của nguyên đơn, hiệu c văn bản nêu trên thì D
sẽ có ý kiến yêu cầu trong vụ án khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Kim P trình bày trong
quá trình giải quyết vụ án như sau:
Năm 2018, thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông
Q trong đó thửa 2174. Sau khi thanh toán tiền đợt một tphát sinh tranh
chấp với người khác nên không thể tiếp tục sang tên đăng bộ, ông Q cũng không
5
khả năng trả lại số tiền đã nhận nên đã tiếp tục cùng ông theo vụ kiện
của bà T và những người khác.
Việc nguyên đơn cho rằng đã quản đất trước năm 1975 không chính
xác. Theo Công văn số 1551/UBND- TNMT thì quyền sử dụng đất là của ông
Văn H2 (ba của ông Q). Đến năm 1993, ông H2 để lại một phần cho ông
Nguyễn Văn R (cha T) quản sử dụng. Đến năm 1998 thì ông H2 được cấp
GCNQSDĐ lần đầu. Sau khi ông H2 chết, ông Q đã tiến hành “khai nhận di sản
thừa kế”, sau đó mới nhận chuyển nhượng tông Q chuyển nhượng cho
Nguyễn Thanh H, đồng thời H cũng đã nhận tiền đặt cọc của C. Như
vậy, là người mua ngay tình trả tiền cho ông Q được pháp luật công nhận
nên không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Việc ông R, bà T quản lý sử dụng đất thì hưởng hoa lợi, lợi tức trên đất một
thời gian dài, việc T khởi kiện xin công nhận quyền sử dụng đất tranh chấp
nêu trên không nguồn gốc đất, không căn cứ pháp luật, cũng như
không quá trình đăng khai nên không sở để công nhận quyền sử
dụng đất cho gia đình T. Để vụ việc kết thúc êm đẹp, cả nguyên đơn,
những ngườiquyền nghĩa vụ liên quan mỗi người chịu một ít thiệt hại nên
P đồng ý tặng Nguyễn Thanh T 500m
2
. Trong trường hợp T không
đồng ý tiến hành hoà giải thì đề nghị Toà án xét xử theo quy định pháp luật.
Ông Văn N trình bày: Ông chồng của Nguyễn Kim P, ông thống
nhất với lời trình bày của bà P.
Theo Đơn khởi kiện ngày 04/4/2023, quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn
Thanh H người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Đ trình bày có nội
dung như sau: H còn độc thân. H nhận chuyển nhượng 07 thửa đất từ
Nguyễn Kim P theo CNQSDĐ ngày 03/3/2022. Trong đó giá chuyển
nhượng thửa 2174 là 650.000.000đ, ngày 23/3/2022 H đã được cập nhật sang
tên trên GCNQSDĐ.
Ngày 22/4/2022, H đã thỏa thuận chuyển nhượng 05 thửa đất trong đó
thửa 2174 nhận cọc 500.000.000đ (của 05 thửa đất) của Nguyễn Thị C
hẹn ngày 24/8/2022 hợp đồng công chứng nhưng ngày 02/6/2022 đã bị
Tòa án nhân dân tỉnh LA ra Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
nên chưa thực hiện được, bà C đang giữ bản chính GCNQSDĐ.
Việc chuyển nhượng đất giữa P với H chỉ thực hiện trên giấy tờ, sau
khi được cấp giấy thì bà H nhận đặt cọc của C luôn, còn thực tế ai đang quản
sử dụng tH không biết, tại thời điểm H nhận chuyển nhượng t
không hề biết đất đang có tranh chấp. Giao dịch giữa H với P hợp pháp,
ngay tình và đã giao đủ tiền nên đề nghị Tòa án công nhận người mua ngay tình.
Bà không đồng ý yêu cầu vô hiệu hợp đồng của nguyên đơn.
H yêu cầu độc lập buộc Nguyễn Kim P phải tiếp tục thực hiện
HĐCNQSDĐ ngày 03/3/2022 giữa Nguyễn Kim P với Nguyễn Thanh H
được Văn phòng C3 chứng thực số 1580 quyển số 01/2022/TP/CC-SCC/HĐGD
6
đối với quyền sử dụng đấtdiện tích 6.024m
2
thửa 2174, tbản đồ số 3, tại
M, huyện Đ, tỉnh LA. Trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về
việc tuyên bố hiệu các văn bản nêu trên thì H yêu cầu Tòa án căn cứ quy
định pháp luật để giải quyết hậu quả hợp đồng hiệu. Đối với C thì đã
nhận tiền cọc vẫn đồng ý tiếp tục bán nhưng C không yêu cầu trong
vụ án này nên bà H cũng không yêu cầu xem xét.
Nguyễn Thị C trình bày:
Ngày 22/4/2022, ký hợp đồng đặt cọc với bà Nguyễn Kim P chồng là
ông Văn N để đặt cọc chuyển nhượng đối với thửa đất số 2174, tbản đồ s
3, tọa lạc tại M, huyện Đ, tỉnh LA do Nguyễn Kim H3 đứng tên
GCNQSDĐ. Theo bà được biết thì bà P là em của bà H3 nên bà ký hợp đồng đặt
cọc với P. Về tranh chấp quyền sử dụng đất giữa T với P thì không
biết nên không ý kiến. Đối với Hợp đồng đặt cọc ngày 22/4/2022 giữa với
P, ông N thì bà đã khởi kiện yêu cầu trả cọc và phạt cọc trong vụ án khác nên
không yêu cầu hay ý kiến trong vụ án này. đề nghị được vắng mặt
trong suốt quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án các cấp.
Văn phòng C3 trình bày:
Vào ngày 01/11/2006, Thị P1 ông Văn Q đã đến Phòng C4
tỉnh LA yêu cầu công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đối
với phần di sản của ông Văn H2 (chết ngày 19/11/2000) vợ Nguyễn
Thị Y (chết năm 1945), di sản để lại là quyền sử dụng đất với tổng diện tích
148.603,00m
2
, tọa lạc tại M, huyện Đ, tỉnh LA. Phòng công chứng đã thông
báo niêm yết hồ này tại UBND M, huyện Đ, tỉnh LA trong 30 ngày
không ai khiếu nại, tranh chấp.
Khi đến yêu cầu công chứng, các ông (bà) nêu trên đã xuất trình đầy đủ hồ
thủ tục liên quan, đã đọc đã nghe Công chứng viên giải thích rõ về nội
dung văn bản này đã đồng ý tên, điểm chỉ vào văn bản trước mặt Công
chứng viên. vậy, văn bản nói trên đã được thực hiện theo đúng trình t
quy định của pháp luật.
Văn phòng C3 đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ việc trên theo đúng
quy định pháp luật. Văn phòng công chứng xin được vắng mặt trong tất cả các
phiên tòa hòa giải, xét xử, giải quyết vụ kiện nêu trên.
Văn phòng C3 trình bày:
Ngày 05/02/2021, ông Văn Q yêu cầu lập di chúc cho Nguyễn Kim
P các thửa đất số: 150 (tờ bản đồ số 2), thửa 1825, 1828, 1836, 1837, 2174,
2180, 2183 (tờ bản đồ số 3) xã M. Di chúc đã được công chứng số 763, quyển số
01/2021-TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 05/02/2021.
Ngày 03/3/2022, Nguyễn Kim P lập HĐCNQSDĐ cho Nguyễn
Thanh H c thửa đất số: 2173, 2056, 2189, 2174, 2183, 2180 (tờ bản đồ số 3),
7
thửa 150 (tờ bản đồ số 2) M. HĐCNQSDĐ đã được công chứng số 1580,
quyển số 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 03/3/2022.
Sau khi tiếp nhận các yêu cầu công chứng nêu trên, Văn phòng đã tiến hành
các biện pháp nghiệp vụ, tra cứu ngăn chặn, kiểm tra hồ về giấy tdo người
yêu cầu công chứng cung cấp và nhận định đã đầy đủ các điều kiện để được giao
dịch. Về mặt chủ thể tham gia ông Võ Văn Q còn đủ minh mẫn để lập di chúc và
tự nguyện lập (kèm giấy khám sức khỏe). Nguyễn Kim P còn đủ minh mẫn
tự nguyện lập hợp đồng, Nguyễn Thanh H đủ điều kiện nhận đất nông
nghiệp.
vậy, các yêu cầu công chứng trên đã được Văn phòng C3 tiến hành giải
quyết theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Yêu cầu Tòa án
căn cứ theo những thông tin trên những chứng cứ, lời khai do hai bên cung
cấp để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật và xin vắng mặt trong cả các
phiên họp, phiên hòa giải và xét xử.
UBND huyện Đ có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T như sau:
Thửa đất số 2174, tờ bản đồ số 3 có nguồn gốc là của ông Võ Văn Q1 và bà
Đỗ Thị D2 khai vỡ làm trước năm 1975 (cha của ông Văn H2) sản
xuất lúa. Ông Văn H2 làm được 3 năm khoảng năm 1977 đến năm 1979
rồi để lại cho ông Nguyễn Văn R làm đến m 1993 mới cho Nguyễn Thanh
T làm cho đến nay. Theo Giấy tay họp thân tộc ngày 06/7/2003 thì cuộc họp đó
do ông Nguyễn Văn R làm chủ trì Nguyễn Thanh T tham dự ý
kiến “đồng ý trả và bán xin mua”.
Vào năm 1998, ông Văn H2 đăng được cấp GCNQSD đất với
diện tích 14ha, trong đó thửa 2174. Sau này ông H2 chết, ông Văn Q
được UBND huyện Đ cấp GCNQSDĐ theo Quyết định số 1834/QĐUBND ngày
04/9/2007 trên sở thừa kế từ ông Văn H2. Vào năm 2021, thi công công
trình đường T lập thủ tục thu hồi đường tỉnh 838B đi ngang qua thửa 2174.
Hiện tại, ông Văn Q đã chết, người được thừa kế theo di chúc là Nguyễn
Kim P người đang đứng tên chủ sử dụng đất. Việc cấp GCNQSDĐ cho ông
Văn H2, ông Văn Q, sau này Nguyễn Kim P thừa kế lại không
tiến hành đo đạc thực tế mà chỉ căn cứ trên bản đồ và cấp giấy.
Ngày 03/3/2022, Nguyễn Kim P chuyển nhượng cho Nguyễn Thanh
H, thửa đất số 2174, tờ bản đồ 3, diện tích 6.024m
2
theo CNQSsố 1580,
quyển 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng C3.
Nguyên đơn Nguyễn Thanh T tranh chấp quyền sử dụng đất yêu cầu
hủy quyết định biệt không n cứ, kiến nghị Tòa án ra Quyết định đình
chỉ vụ án.
Tại Bản án dân sthẩm số 74/2023/DS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh LA quyết định:
8
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thanh
T đối với bị đơn ông Văn Q, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Kim P, Nguyễn Thanh H về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu
vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
- Tuyên bố hiệu một phần Văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày
01/12/2006 do Phòng C4 tỉnh LA (nay Văn phòng C3) công chứng đối với
phần chia thừa kế diện tích đất 6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc một
phần thửa đất số 2174, tbản đồ số 3, tại M, huyện Đ, tỉnh LA của ông
Văn H2 cho ông Võ Văn Q.
- Tuyên bố hiệu Di chúc chia thừa kế quyền s dụng đất ngày
05/02/2021 do Phòng C5 công chứng đối với phần chia thừa kế diện tích đất
6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc một phần thửa đất số 2174, tờ bản
đồ số 3, tại xã M, huyện Đ, tỉnh LA của ông Võ Văn Q cho bà Nguyễn Kim P.
- Tuyên bố hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
số 1580, quyển 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/2/2022 đối với diện tích
đất 6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc một phần thửa đất số 2174, tờ
bản đồ số 3, tại M, huyện Đ, tỉnh LA giữa Nguyễn Kim P với Nguyễn
Thanh H.
- Nguyễn Thanh T được quyền quản lý, sử dụng đưc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 6.002,4m
2
(khu B của Mảnh
trích đo) thuộc một phần thửa đất số 2174, tờ bản đồ s3, tại M, huyện Đ,
tỉnh LA.
Vị trí, kích thước, tứ cận khu đất, thửa đất nêu trên được thể hiện theo
Mảnh trích đo địa chính số 3001-2021 của Trung tâm Q2 khu vực phía Nam đo
vẽ ngày 15/12/2021 được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại huyện Đ
duyệt ngày 27/12/2021, được đính kèm theo bản án.
Các đương sự trách nhiệm liên hệ quan Nhà nước thẩm quyền để
làm thủ tục khai, đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định pháp luật đất đai.
Cơ quan đăng ký đất đai có thẩm quyền căn cứ vào Bản án có hiệu lực pháp
luật của Tòa án để giải quyết, điều chỉnh, biến động đất đai và cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho phù hợp kết quả giải quyết của Tòa án.
2. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thanh H đối với Nguyễn Kim P về việc yêu cầu tiếp tục
thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể: Yêu cầu bà
Nguyễn Kim P phải giao cho Nguyễn Thanh H diện tích đất 6.002,4m
2
(khu
B của Mảnh trích đo) thuộc mt phần thửa đất số 2174, tbản đồ số 3, tại M,
huyện Đ, tỉnh LA.
3. Tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thi số
01/2022/QĐ-BPKCTT ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh LA về việc
9
tạm dừng việc giải quyết hồ chuyển nhượng đối với thửa đất 2174, tờ bản đồ
số 3, tại xã M, huyện Đ, tỉnh LA.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ, đo đạc, định giá, án phí và thông báo về quyền kháng cáo củac đương sự
theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/10/2023, Ngọc D đơn kháng o yêu cầu sửa toàn bộ
bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 10/10/2023, Nguyễn Thanh H đơn kháng cáo yêu cầu sửa toàn
bộ bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Kim P
với bà, chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của bà H.
Ngày 13/10/2023, Nguyễn Kim P ông Văn N đơn kháng o
yêu cầu sửa toàn bộ bản án thẩm theo ớng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh LA.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Kim P ông Lý Văn N
Thị Thanh T2 trình bày: Hiện tại giấy chứng nhận quyền sdụng đối với
thửa đất số 2174 đã được cập nhật, sang tên cho H. Tuy nhiên, Toà án cấp
thẩm cho rằng T đang quản lý, sử dụng thửa đất số 2174 không đúng. Bởi
lẽ, ông Q đã giao thửa đất trống cho P tại biên bản thẩm định tại chỗ do
Toà án cấp thẩm lập thể hiện rằng thửa đất đang để trống, không xác định
được ai đang quản lý sử dụng.
Theo đơn khởi kiện của T, yêu cầu của T buộc Ngọc D
con của ông Võ Văn Q trả lại phần diện tích đất 6154 m
2
thuộc thửa đất số 2174
cho T. Tại thời điểm T yêu cầu D trlại phần diện tích đất, ông Q đã
lập văn bản chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho P. Nguyên đơn cho rằng
ông Q P biết đất đang bị tranh chấp không đúng ngày hợp đồng
chuyển nhượng tại văn phòng C3 ngày 05/02/2021, lúc này đất không
tranh chấp. Do đó, T không còn quyền quản lý, sử dụng đối với thửa đất trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của
bà P và ông N, sửa bản án sơ thẩm.
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thanh H Bích T3
trình bày: H vẫn ginguyên yêu cầu kháng cáo. Giao dịch chuyển nhượng
giữa bà H và bà P là giao dịch ngay tình, hợp pháp. Ngoài ra, bà H đã thanh toán
toàn bộ số tiền trong hp đồng chuyển nhượng cho P. Hiện nay, H đã
được cập nhật, sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 2174. Thời điểm H đi xem đất thì đất để trống, không ai sdụng hay
canh tác trên đất. Thời điểm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cũng không có ai ngăn cản, tranh chấp. Do đó, có thể kết luận rằng giao dịch này
hợp pháp, tuân thủ quy định của pháp luật đất đai. Do đó, đề nghị Hội đồng
10
xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm.
Theo Điều 133 B luật Dân sự, đối với các giao dịch đã được chuyển
nhượng hợp pháp cho người thứ ba ngay tình thì Toà án phải công nhận, nếu
trong trường hợp một bản án trước đó tuyên huỷ bỏ thì vẫn phải công nhận
giao dịch cho phía người nhận chuyển nhượng. Toà án cấp thẩm không xem
xét đến căn cứ trên mà lại tuyên huỷ giao dịch giữa bà P và bà H là không đúng.
Người đại diện theo ủy quyền của T cho rằng T đang sử dụng, canh
tác thửa đất số 2174 nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh bà T đang là
người trực tiếp canh tác trên đất; hiện nay thửa đất vẫn đang để trống.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư Nguyễn
Hoàng L trình bày: Trước đây một vụ án hành chính do Toà án nhân dân
huyện Đức Huệ thụ xét xử thẩm, sau đó được chuyển đến Toà án nhân
dân tỉnh LA xét xử phúc thẩm. Trong vụ án này, ông Q tham gia ttụng với
cách là người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; P là người đại diện theo uỷ
quyền của ông Q. Do đó, giao dịch chuyển nhượng giữa ông Q và bà P (trong đó
thửa đất số 2174 của T) giao dịch không hợp pháp tài sản đang
tranh chấp.
Nguyễn Thanh H không phải người thba ngay tình khi thực hiện
giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất với P, hai người đều biết tài sản
đang bị tranh chấp, nguồn gốc tài sản P nhận di sản thừa kế không đúng
quy định pháp luật.
Toàn bộ quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Võ Văn
H2 đã vượt quá thẩm quyền, không đúng quy định tại Điều 44 Luật Đất đai năm
1993, cụ thể hạn mức giao đất nông nghiệp cho mỗi hộ gia đình không được
vượt quá 3 hecta, tuy nhiên UBND huyện Đ lại cấp cho ông H2 đến 14 hecta.
UBND huyện Đ đã giải trình, xác nhận rằng khi cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, ông H2 chỉ đứng tên đại diện cho gia tộc, không phải được cấp cho
nhân ông H2. Mặt khác, ông H2 để lại di sản thừa kế toàn bộ phần diện tích
đất 14 hecta của gia tộc cho nhân ông Q không đúng. Ngay tđầu, việc
UBND huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H2 là không
đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không nhân canh tác từ m
1963 đến năm 1975. Điều này trái với Điều 5 Luật Đất đai năm 1993, cụ thể
Nhà nước chỉ công nhận quyền sdụng đất cho nhân trực tiếp sản xuất, ổn
định, lâu dài không tranh chấp. Tuy nhiên, ông H2 không sdụng đất ngày
nào đã được UBND cấp giấy chứng nhận là không đúng đối tượng. Thực tế,
ông Q chỉ nhận di sản thừa kế theo nh thức trên giấy tchứ không biết thửa
đất nằm vị t nào. Việc này đã có Văn bản xác nhận đề nghị lập ngày
17/01/2007 của UBND M Biên bản làm việc ngày 02/5/2008 của quan
Thanh tra huyện Đ.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Văn V thống nhất
với quan điểm của Luật Nguyễn Hoàng L trình bày bổ sung: Ông Q
11
P đều biết rằng thửa đất đang bị tranh chấp vẫn thực hiện việc chuyển
nhượng dưới nh thức di chúc trái với quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật
Đất đai. Giao dịch giữa P H thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh
doanh bất động sản. Theo đó, hai bên quyền nghĩa vụ cung cấp đầy đủ
thông tin về tài sản chuyển nhượng. Tuy nhiên, hai người không thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời cho rằng giao dịch trong vụ án ngay tình,
hợp pháp là không đúng.
Do đó, Luật Nguyễn Hoàng L ông Văn V đề nghị Hội đồng xét
xử bác kháng cáo của Ngọc D, Nguyễn Thanh H, Nguyễn Kim P
ông Lý Văn N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên tòa:
V t tng: Thm phán và Hội đồng xét x thc hiện đúng quy định ca
pháp lut t tụng. Các đương sự thc hin quyn, nghĩa v theo đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tại Công văn số 1078/UBND-TNMT ngày 12/5/2022 của
UBND huyện Đ xác định nguồn gốc đất là của ông Văn Q1 và bà Đỗ Thị D2
khai vỡ trước năm 1975. Từ năm 1977 đến năm 1979, ông H2 quản sử
dụng đất để lại cho ông R canh tác. Từ năm 1980, ông Nguyễn Văn R tiến
hành sản xuất, canh tác trên đất. Đến m 1993, ông R để lại cho T sử dụng
đến nay. Ngày 05/5/1998, ông Văn H2 khai được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với 45 thửa đất, trong đó thửa đất số 2174 đất
tranh chấp. Ngày 04/9/2007, ông Văn Q được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; ngày 14/02/2022, Nguyễn Kim P được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H2, ông Q,
P không được xác thực ràng theo thực tế chỉ căn cứ trên bản đồ địa
chính. Như vậy, căn cứ xác định phần diện ch đất tranh chấp do ông R sử
dụng, năm 1993 ông R để lại di sản phần diện tích đất trên cho T sử dụng
đến nay. UBND huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H2
vào năm 1998 là không đúng đối tượng sử dụng đất. Đất là do gia đình T
canh tác, sử dụng ổn định, lâu dài. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà T là có căn cứ.
Ông Q P biết đất đang tranh chấp nhưng vẫn thực hiện các giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trong đó có giao dịch với bà H. H đã
được cập nhật, sang tên trên giấy chứng nhận. Ông H2, ông Q, P, H chỉ
đứng tên trên giấy chứng nhận nhưng thực tế đất do bà T quản lý, sử dụng.
vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa P H bị hiệu.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Võ Ngọc D,
Nguyễn Thanh H, Nguyễn Kim P ông Văn N, giữ nguyên bản án
thẩm.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
12
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn bà Võ Ngọc D có đơn xin xét xử vắng mặt;
những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm Nguyễn Thị C, Văn
phòng C3 (được chuyển đổi tVăn phòng C3), Văn phòng C3 UBND huyện
Đ, tỉnh LA vắng mặt đã được triệu tập hợp lệ. Do đó, căn cứ khoản 2, khoản
3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc
thẩm xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng trên.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về nguồn gốc quá trình sử dụng, đăng ký, khai, chuyển quyền
sử dụng phần đất tranh chấp.
Theo các tài liệu trong hồ vụ án thể hiện, phần đất tranh chấp diện
tích 6.154m
2
(đo đạc thực tế 6.024m
2
) thuộc thửa đất số 2174, tờ bản đồ số 3,
tại xã M, huyện Đ, tỉnh LA (sau đây viết tắt là thửa đất 2174 hoặc phần đất tranh
chấp), hiện trạng là đất trống do bà Nguyễn Thanh T đang quản lý, sử dụng.
Năm 1997, ông Văn H2 đăng ký, khai 45 thửa đất tổng diện tích
148.603m
2
, trong đó thửa đất 2174. Ngày 05/8/1998, ông H2 được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 45 thửa đất nêu trên. Ông H2 chết ngày
19/11/2000, không để lại di chúc. Năm 2006, các đồng thừa kế của ông H2 là
ông Võ Văn Q và bà Võ Thị P1 kê khai di sản thừa kế, theo đó ông Q được nhận
thừa kế 45 thửa đất được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất vào ngày
04/9/2007.
Ngày 05/02/2021, ông Q lập di chúc để lại toàn bộ 148.603m
2
đất nêu trên
cho Nguyễn Kim P. Ngày 27/02/2021, ông Q chết. P khai, đăng
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/12/2022. Ngày
03/3/2022, bà P chuyển nhượng thửa đất 2174 cho bà Nguyễn Thanh H. Bà H đã
hoàn tất thủ tục, được cập nhật đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
ngày 23/03/2022.
Về nguồn gốc đất, tại Công văn số 1078/UBND-TNMT ngày 12/5/2022,
Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh LA xác nhận nguồn gốc đất của cụ Văn
Q1 cụ Đỗ Thị D2 (cha mẹ của ông Văn H2) khai hoang canh tác từ
trước năm 1975. Ông H2 sử dụng đất từ năm 1977 đến năm 1979 thì để lại cho
ông Nguyễn Văn R (cháu ngoại của cụ Q1, cụ D2) canh tác. Đến năm 1993, ông
R giao lại cho T (con ông R) sử dụng (BL: 282). Nội dung công văn nêu trên
phù hợp với Biên bản họp mặt thân tộc giải quyết về đất đai họ tộc ngày
06/7/2003 do ông R người chủ trì cuộc họp để lấy ý kiến của những người
đang sử dụng đất, những người này đều thừa nhận sử dụng đất của ông bà,
đồng ý trả lại đất, nếu bán txin mua lại, trong đó T (T6) (BL: 104); phù
hợp với Biên bản họp họ tộc ngày 22/10/2006 do ông Văn Q chủ trì, trong
đó xác định phần đất ông H4 đứng tên quyền sử dụng là đất họ tộc (BL:155);
13
phù hợp với Biên bản họp họ tộc ngày 21/9/2006, trong đó xác nhận ông nội (cụ
Văn Q1) giao cho ông H2 đứng tên quyền sử dụng 148.603m
2
đất tại ấp M,
nay ông H2 đã chết nên mời các chi trong họ tộc về chia đất, biên bản này
chữ của 5 người đại diện cho các chi, trong đó ông R, xác nhận của
chính quyền địa phương (BL: 153); phù hợp với Tờ tường trình của các con
cháu cụ Q1, cụ D2 có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, n cứ xác định nguồn gốc 148.603m
2
đất tại ấp M (trong đó
có thửa đất tranh chấp) là của cụ Võ Văn Q1 và cụ Võ Thị D3 chết để lại. Cụ Q1
cụ D3 05 người con, hiện nay đã chết. Phần đất nêu trên do các con cháu
của cụ Q1, cụ D3 quản lý, sử dụng riêng lẻ, trong đó chi của ông R sử dụng thửa
đất 2174.
[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của bị đơn Ngọc D, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Kim P, ông Văn N về việc đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án
thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng thửa đất
2174 của bà Nguyễn Thanh T.
T khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng phần đất tranh
chấp cho T. Tuy nhiên, tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bà T lúc thì cho
rằng phần đất tranh chấp do T khai hoang, sử dụng (BL: 96), lúc thì cho rằng
phần đất tranh chấp do cha T cụ Nguyễn Văn R (chết năm 2012) khai
hoang, đến năm 1985 thì cho T sử dụng. Nhưng trong suốt quá trình giải
quyết vụ án, T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào giá trị pháp
để chứng minh về nguồn gốc đất. Trong khi đó, chính ông R là cha bà T cũng đã
xác nhận trong các biên bản họp thân tộc rằng phần đất tranh chấp của cụ Q1
cụ D3. Ông R cũng là người chủ trì cuộc họp thân tộc vào ngày 06/7/2003 để
yêu cầu những người đang sử dụng đất của cụ Q1, cụ D3 trả lại đất cho thân tộc,
trong đó T. T mặc quá trình sử dụng đất thực tế, nhưng T
không chứng minh được phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
mình, không đăng ký, khai đối với phần đất tranh chấp; không khiếu nại khi
ông H2, ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2020, T
khởi kiện yêu vụ án hành chính cầu hủy một phần quyết định cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Q hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Q đối với thửa 2174. Tại Bản án hành chính phúc thẩm số
748/2020/HC-PT ngày 17/12/2020, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh đã hủy toàn bộ vụ án hành chính đình chỉ giải quyết vụ án do hết
thời hiệu khởi kiện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
bà T, công nhận quyền sử dụng đất tranh chấp cho bà T là không phù hợp với tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tại Biên bản họp họ tộc ngày 21/9/2006 thể hiện, sau khi cụ H2 chết, đại
diện cho 5 chi (trong đó ông R) đã họp thân tộc về việc phân chia thừa kế
quyền sử dụng đất, trong đó nội dung: Ông Q đề nghị phân chia 148.603m
2
đất do cụ H2 đứng tên quyền sử dụng đất cho c chi; các chi thống nhất với ý
14
kiến của ông Q, khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Q thông báo
cho các chi biết (t lục số 153). Ngày 01/12/2006, ông Q làm thủ tục khai
thừa kế, đến năm 2007, ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất.
Như vậy, việc ông Q khai thừa kế để được cấp giấy chứng nhận đã s
bàn bạc, thống nhất trong họ tộc. Tại phiên tòa phúc thẩm, Ngọc D (con
ông Q) cung cấp Bản tường trình kèm theo đó là các Tờ tường trình ngày
25/3/2024 của ông Võ Thành Đ1, ông Võ Văn C1, bà Võ Thị T7, Ngô Thị K,
ông Ngô Văn T8, ông Ngô Văn R1, ông Văn C2, ...(các cháu nội, ngoại của
cụ Q1 cụ D3 thuộc các chi trong họ tộc) có nội dung xác nhận vào năm 2018,
đại diện các chi đã họp và thống nhất yêu cầu ông Q bán phần đất của cụ Q1, cụ
D3 để lại, lấy tiền chia cho các chi, theo đó chi đã nhận tiền do ông Q
D phân chia, chi đã nhận đất sử dụng trong đó chi thứ 2 thuộc nhánh của
ông R, bà T.
Với c tài liệu, chứng cứ nêu trên, Tòa án cần phải xác minh, làm rõ, sau
khi ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất thì trong thân tộc
họp thống nhất cho ông Q chuyển nhượng quyền sử dụng đất, lấy tiền chia
cho các chi hay không, thực tế các chi đã nhận bao nhiêu tiền, chi của ông R,
T đã được phân chia hay chưa. Hiện nay, phần đất tranh chấp ông Q đã chuyển
nhượng cho Nguyễn Kim P (bằng hình thức để lại di chúc), P đã chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho Nguyễn Thanh H. Do đó trường hợp, chi của
ông R, T chưa được phân chia thì cần tính giá trị quyền sử dụng đất tranh
chấp buộc người thừa kế của ông Q trả cho chi của ông R, T phần giá trị
quyền sử dụng đất chi ông R, T được nhận mới đảm bảo quyền lợi của
các bên đương sự. Phần đất tranh chấp đất của ông để lại thân tộc cũng
đã nhiều lần họp nhằm phân chia phần đất này nên cần phải đưa những người
thuộc các chi trong thân tộc của cụ Q1, cụ D3 vào tham gia ttụng để làm
việc phân chia đất, nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất giải quyết
các yêu cầu của họ (nếu có). Các vấn đề trên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thực hiện
đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung, đồng thời do có
các tài liệu mới đương sự cung cấp tại Tòa án cấp phúc thẩm, nên cần thiết
phải hủy phần giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thanh T
với ông Văn Q của bản án dân sự thẩm, giao hồ vụ án về cho Tòa án
nhân dân tỉnh LA xét xử sơ thẩm lại phần này.
[2.3] Xét kháng cáo của Ngọc D, Nguyễn Kim P, ông Văn N,
Nguyễn Thanh H về việc đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm,
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thanh T, về việc yêu cầu
hủy một phần Văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày 01/12/2006, hủy một
phần Di chúc ngày 05/02/2021 đối với thửa đất 2174.
Như đã phân tích nêu trên, phần đất tranh chấp nguồn gốc của cụ Q1 và
cụ D chết để lại, ông H2 là con của hai cụ đã khai, đăng được cấp
quyền sử dụng đất từ năm 1998. Năm 2000, ông H2 chết. Ngày 01/12/2006, các
đồng thừa kế của ông H2 ông Q, P1 lập Văn bản thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế quyền sử dụng đất cấp cho cụ H2 trong đó thửa đất 2174. Tại
15
thời điểm này, thửa đất 2174 không tranh chấp, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ông H2 không bị thu hồi, hủy bỏ, ông H2 được xác định là chủ
sử dụng hợp pháp đối với thửa đất 2174. Theo trình bày của Phòng C4, tỉnh LA
(nay là Văn phòng C3) thì Phòng Công chứng đã thông báo niêm yết hồ
khai di sản thừa kế của ông H2 tại Ủy ban nhân dân M, tỉnh LA trong thời
hạn 30 ngày không ai khiếu nại, tranh chấp, thủ tục công chứng Văn bản thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế được thực hiện đúng trình tự quy định của
pháp luật (BL: 185). Do đó, Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày
01/12/2006 do Phòng C4, tỉnh LA (nay là Văn phòng C3) công chứng đối với
phần chia thừa kế thửa đất 2174 là hợp pháp. Sau đó, ông Q cũng đã được
quan N nước thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất
2174. vậy, Tòa án cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của T, tuyên
bố vô hiệu một phần Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày
01/12/2006 nêu trên, là không đúng.
Ngày 28/8/2019, ông Q khởi kiện yêu cầu Nguyễn Thanh T trả lại phần
đất tranh chấp. Ngày 29/01/2021, ông Q rút đơn khởi kiện. Ngày 03/02/2021,
Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Q. Ngày 05/2/2021, ông Q
lập di chúc để lại quyền sử dụng đất cho Nguyễn Kim P, trong đó có thửa đất
2174 (thực chất là chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho P). Di chúc được
Văn phòng C3 vào ngày 05/2/2021. Thời điểm công chứng, ông Q đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất 2174 không có tranh chấp (T
đơn khởi kiện tranh chấp với ông Q vào ngày 09/3/2021 sau thời điểm ông Q
lập di chúc). Theo trình bày của Văn phòng C3 thì Văn phòng C3 đã tiến hành
các biện pháp nghiệp vụ, tra cứu ngăn chặn, kiểm tra hồ về giấy tdo người
yêu cầu công chứng cung cấp và nhận định đã đầy đủ các điều kiện để giao dịch.
Ông Q còn đủ minh mẫn để lập di chúc tự nguyện lập di chúc (kèm theo giấy
khám sức khỏe) (BL: 400). Trước khi chết, ông Q không thay đổi hay hủy bỏ di
chúc. Theo quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì Di chúc ngày
05/02/2021 của ông Q để lại di sản thừa kế thửa đất 2174 cho P di chúc
hợp pháp. Sau đó, P cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với
thửa đất 2174. vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
T, tuyên bố hiệu một phần Di chúc ngày 05/2/2021 đối với thửa đất 2174,
không đúng.
Từ những phân ch nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng
cáo của D, H, P ông N; sửa một phần bản án thẩm, không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của T về yêu cầu hủy một phần Văn bản thỏa thuận
phân chia di sản ngày 01/12/2006, hủy một phần Di chúc ngày 05/02/2021 của
ông Q đối với thửa đất 2174.
[2.4] Xét kháng cáo của Ngọc D, Nguyễn Kim P, ông Văn N,
Nguyễn Thanh H về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 03/3/2022 giữa bà Nguyễn Kim P với bà Nguyễn Thanh
H.
16
Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà P đã lập hợp đồng
chuyển nhượng thửa đất số 2174 cho H. Hợp đồng được công chứng tại Văn
phòng C3 ngày 03/3/2022. Mặc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
trên được thực hiện trong khi T đã đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử
dụng đất với D. Tuy nhiên, như đã phân ch nêu trên, thửa đất 2174 do P
nhận thừa kế hợp pháp từ ông Q. Bà P đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong vụ án này, yêu cầu khởi kiện của
bà T về việc hủy một phần Văn bản thỏa thuận về phân chia di sản ngày
01/12/2006, hủy một phần Di chúc ngày 05/02/2021 đối với thửa đất 2174
không được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận; bà P và bà H không có tranh chấp
về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Hiện nay, H cũng
đã được cập nhật đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tranh chấp,
đã thanh toán đủ tiền chuyển nhượng. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận kháng cáo, sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của T về việc yêu cầu Tòa án hủy một phần Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 03/3/2022 giữa P với H đối với thửa đất 2174;
chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 03/3/2022 giữa P với H đối với phần đất tranh
chấp.
[2.5] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Kim P ông Văn N về
việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Tòa án nhân dân tỉnh LA.
Qua kiểm tra, hồ vụ án không Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời số 02/2022/QĐ-BPKCTT ngày 02/6/2022 như kháng cáo của P
và ông N chỉ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số
01/2022/QĐ-BPKCTT ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh LA.
Tòa án cấp thẩm tuyên duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời số 01/2022/QĐ-BPKCTT ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh LA
về việc tạm dừng việc giải quyết hồ chuyển nhượng đối với thửa đất 2174, tờ
bản đồ số 3, tại M, huyện Đ, tỉnh LA. Nhưng quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời này được ban hành trong vụ án hành chính Khiếu kiện quyết
định hành chínhgiữa người khởi kiện Nguyễn Thanh T người bị kiện
Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L. Tuy nhiên, vụ án hành chính đã bị đình
chỉ giải quyết theo Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính số
83/2022/QĐST-HC ngày 15/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh LA. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án phải ra ngay quyết
định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi việc giải quyết vụ
án được đình chỉ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này không
đúng theo quy định của Bộ luật T tụng dân sự. Do đó, Tòa án cấp thẩm
tuyên duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nêu trên không
đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, kháng cáo của ông N, bà
P có cơ sở nên được chấp nhận.
17
[3] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá: Tổng cộng là
9.663.773đ (chín triệu, sáu trăm sáu mươi ba nghìn, bảy trăm bảy mươi ba
đồng), tại phiên tòa thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng
ý chịu toàn bộ chi phí và đã nộp xong.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
[3.1] Đối với phần bản án dân sthẩm bị sửa: nguyên đơn Nguyễn
Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật; người kế thừa
quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Văn Q Ngọc D người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thanh H, được miễn án phí dân sự
sơ thẩm; bà Nguyễn Kim P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[3.2] Đối với phần bản án dân sự sơ thẩm bị hủy, án phí dân sự thẩm
các chi phí tố tụng khác sẽ được xác định khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bản án sơ thẩm bị hủy một phần và bị sửa
một phần nên các đương sự kháng o không phải chịu án phí dân sphúc
thẩm, hoàn trả lại tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 308 và Điều 309, Điều 310 Bộ lut T tng dân s năm 2015;
Chấp nhận một phần kháng cáo của người kế thừa quyền nghĩa vụ tố
tụng của bị đơn là bà Võ Ngọc D;
Chấp nhận kháng cáo của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn Kim P và ông Lý Văn N;
Áp dụng:
- Các Điều 26, 37, 138, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các
Điều 95, 99, 100, 101, 106, 166, 195 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 8, 11, 14,
117, 119, 133, 609, 624, 630 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm, cụ thể:
1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thanh T, về việc
yêu cầu Tòa án:
- Tuyên bố hiệu mt phần Văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày
01/12/2006 do Phòng C4 tỉnh LA (nay Văn phòng C3) công chứng đối với
phần chia thừa kế diện tích đất 6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc một
phần thửa đất số 2174, tbản đồ số 3, tại M, huyện Đ, tỉnh LA của ông
Văn H2 cho ông Võ Văn Q.
18
- Tuyên bố hiệu Di chúc chia thừa kế quyền sử dụng đất ngày
05/02/2021 do Phòng C5 công chứng đối với phần chia thừa kế diện tích đất
6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc một phần thửa đất số 2174, tờ bản
đồ số 3, tại xã M, huyện Đ, tỉnh LA của ông Võ Văn Q cho bà Nguyễn Kim P.
- Tuyên bố hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất số 1580, quyển 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/2/2022 đối với diện
tích đất 6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc một phần thửa đất số 2174,
tờ bản đồ số 3, tại M, huyện Đ, tnh LA giữa Nguyễn Kim P với
Nguyễn Thanh H.
1.2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Nguyễn Thanh H về việc yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/2/2022 giữa bà Nguyễn Kim P với bà
Nguyễn Thanh H.
2. Hủy một phần Bản án dân sự thẩm, về phần giải quyết yêu cầu khởi
kiện của Nguyễn Thanh T đối với bị đơn ông Văn Q (đã chết, người kế
thừa quyền nghĩa vụ tố tụng Ngọc D) về việc tranh chấp quyền sử
dụng phần đất diện ch diện tích 6.002,4m
2
(khu B của Mảnh trích đo) thuộc
một phần thửa đất số 2174, tờ bản đồ s3, tại M, huyện Đ, tỉnh LA; giao hồ
vụ án về cho Tòa án nhân dân tỉnh LA giải quyết lại phần bị hủy theo thủ tục
sơ thẩm.
3. Huỷ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2022/QĐ-
BPKCTT ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh LA về việc tạm dừng việc
giải quyết hồ chuyển nhượng đối với thửa đất 2174, tờ bản đồ số 3, tại M,
huyện Đ, tỉnh LA.
4. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ , đo đạc, định giá:
Tổng cộng 9.663.773đ (chín triệu, sáu trăm sáu mươi ba nghìn, bảy trăm bảy
mươi ba đồng), tại phiên tòa sơ thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn đồng ý chịu toàn bộ chi phí và đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1 Đối với phần bản án dân sự sơ thẩm bị sửa:
- Nguyễn Thanh T phải chịu 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) án phí
dân sự thẩm, được cấn trừ vào stiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp đóng theo Biên lai thu số 0001546 ngày 07/12/2022 của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh LA.
- Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn ông Văn Q
Võ Ngọc D được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Nguyễn Kim P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Nguyễn Thanh H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
19
5.2 Đối với phần bản án dân sthẩm bị hủy, án phí dân sự thẩm sẽ
được xác định khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
Số tiền tạm ứng án phí 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng)
Nguyễn Thanh T đã nộp theo Biên lai thu số 0009030 ngày 03/3/2021 của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh LA, sẽ được xử lý khi khi giải quyết sơ thẩm lại vụ án.
6. Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyễn Kim P, ông Văn N, không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm. Bà P được nhận lại tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0006707
ngày 24/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh LA. Ông Văn N được
nhận lại tạm ng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006706 ngày
24/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh LA.
Nguyễn Thanh H và bà Ngọc D được miễn nộp tạm ứng án phí dân
sự phúc thẩm.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 Điều 9 của
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh (1);
- TAND tỉnh LA (1);
- VKSND tỉnh LA (1);
- Cục THADS tỉnh LA (1);
- Các đương sự (16);
- Lưu: hồ sơ (2),VP(3), 30 (NTCL);
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 866/2024/DS-PT Bản án số 866/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 866/2024/DS-PT Bản án số 866/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất