Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 84/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 18/06/2025 của TAND tỉnh Bắc Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Ninh
Số hiệu: 84/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 84/2025/DS-PT
Ngày: 18 - 6 - 2025
V/v:Tranh chấp hợp đồng vay tài
sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
Thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán- chủ toạ phiên t: Ông Phạm Văn Tú
Các thẩm phán: Bà Phạm Thị Chuyền
Bà Nguyễn Thị Hằng
Thư phiên toà: Trần Thị Mỹ Hạnh - Thư Toà án nhân dân tỉnh Bắc
Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang: ông Nguyễn Văn Dũng -
Kiểm sát viên.
Ngày 18/6/2025, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ số 41/2025/TLPT-DS ngày 09 tháng 4 năm 2025 về việc Tranh chấp
hợp đồng vay tài sản do bản án dân sự sơ thẩm số: 07/2025/DS-ST ngày
20/02/2025 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 52/2025/QĐ-PT ngày
06/5/2025 Quyết định hoãn phiên toà số: 83/QĐ-PT ngày 26/5/2025 giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: ChVũ Thị C, sinh năm 1980 (có mặt)
Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
- Bị đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1992 (có mặt)
Địa chỉ: Thôn V, xã Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
Người kháng cáo: Chị Phạm Thị H là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 15/10/2024 và các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị C trình bày:
Giữa chị chị Phạm Thị H mối quan hệ quen biết nhau nên chị đã cho chị
H vay 02 lần với tổng số tiền 910.000.000 đồng để chị H sử dụng vào việc đáo hạn
tiền vay ngân hàng và đầu tư làm ăn phát triển kinh tế cụ thể như sau:
- Đối với khoản vay nợ trong Giấy vay nợ ngày 16/01/2023.
Ngày 16/01/2023 dương lịch chị H hỏi vay chị số tiền 500.000.000 đồng
(Năm trăm triệu đồng). Chị và chị H thống nhất đây là một khoản vay riêng không
liên quan đến các khoản vay khác, chị H viết Giấy vay tiền riêng đối với khoản vay
này. Lãi suất chị chị H thống nhất 1%/tháng. Thời hạn vay từ ngày 16/01/2023
đến ngày 18/01/2023. Tuy nhiên khi đến hạn chị H không trả nợ chị . Chị H không
trả chị cả tiền gốc và tiền lãi.
Về thanh toán tiền lãi: Đối với khoản vay nợ 500.000.000 đồng ngày
16/01/2023, từ khi vay nợ đến nay, chị H chưa thanh toán tiền lãi cho chị .
Nay chị yêu cầu chPhạm Thị H phải trả nợ số tiền 500.000.000 đồng gốc của
Giấy vay tiền ghi ngày 16/1/2023 dương lịch với lãi suất là 0,83%/tháng, kể từ ngày
vay 16/01/2023 dương lịch đến ngày xét xử sơ thẩm tính tròn thời gian trả lãi là 02
năm 01 tháng.
- Đối với khoản nợ vay ngày 30/4/2023 nhưng được chốt nợ trong giấy vay
nợ ngày 20/8/2023 tchị cho chị Phạm Thị H vay với tổng slần là 05 (năm) lần
được chuyển khoản từ số tài khoản của chị 221119808, ngân hàng M, chủ tài
khoản Vu Thi Chuyen qua số tài khoản 821000033083 Ngân hàng V Chủ tài khoản
Phạm Thị H. Thời điểm chị H bắt đầu vay chị là ngày 17/5/2022 đến ngày
17/10/2022, với tổng số tiền 1.310.000.000 đồng. Giữa chị chị H thống nhất
chị H trả lãi suất là 4,5%/tháng. Cụ thể thông tin từng lần vay nợ chị liệt kê chi tiết
trong bảng thống kê tiền vay.
Tổng số tiền chị H vay chị 1.310.000.000 đồng. Chị H đã trả chị 04 lần tiền
gốc với tổng số tiền là 900.000.000 đồng tiền gốc, 21 lần trả tiền lãi với tổng số tiền
là 256.700.000 đồng. Cụ thể từng lần trả chị liệt kê chi tiết trong bảng thống kê tiền
trả.
Ngày 20/8/2023 chị và chH đã ngồi lại để đối chiếu, tính toán lại số tiền gốc,
lãi mà chị H đã trả chị. Theo đó chị chị H chốt số tiền gốc, tiền lãi và chị H viết
giấy và ký giấy chốt nghi ngày 20/8/2023 với số tiền gốc 410.000.000 đồng, chị H
đã trả 60.000.000 đồng tiền lãi, số tiền lãi còn nợ 5.500.000 đồng tính đến ngày
30/8/2023 hai bên vào giấy trả lãi ghi ngày 20/8/2023. Chị H hẹn chị đến
30/9/2023 thì trả hết số tiền gc 410.000.000 đồng, số tiền lãi là 5.500.000 đồng nên
chị đã để chị H giữ lại giấy chốt n30/8/2023 là bản gốc chữ của chị H của
chị.
Ngày 21/10/2023 chị ký nhận vào giấy Biên nhận ghi ngày 21/10/2023 với
số tiền 17.000.000 đồng mà chị H trả lãi của khoản vay 410.000.000 đồng.
Nay chị yêu cầu chị Phạm Thị H trả nợ cho chị số tiền 410.000.000 đồng tiền
gốc vay ngày 30/4/2023 với lãi suất 0,83%/tháng, kể từ ngày vay 30/04/2023
dương lịch đến ngày xét xử sơ thẩm tính tròn thời gian trả lãi là 01 năm 09 tháng.
Ngoài ra chị không có tranh chấp hoặc yêu cầu gì khác.
Về nguồn gốc số tiền chị cho chị H vay nợ, đây khoản tiền riêng của chị
vay của người khác về cho chị Phạm Thị H vay. Chồng chanh Nguyễn Đức X
không biết và cũng không liên quan gì đến việc chị cho chị H vay nợ số tiền trên.
* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 10/01/2025 các lời khai tiếp theo trong
quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Phạm Thị H trình bày:
- Chị có vay chị Vũ Thị C số tiền 500.000.000 đồng tiền mặt, lãi suất vay do
hai bên thỏa thuận lãi 1%/tháng (12%/năm). Thời hạn vay 03 ngày từ ngày
16/01/2023 dương lịch đến ngày 18/01/2023 dương lịch thì trả nợ. Chị người viết,
ký, điểm chỉ giấy vay tiền ghi ngày 16/1/2023 dương lịch này. Đến ngày 30/4/2023,
chị đã trả cho chị C tổng số tiền gốc 200.000.000 đồng chuyển khoản qua tài
khoản số 221119808, ngân hàng Q (MB) của chị Thị C theo giấy nợ ngày
16/01/2023.
Trong khoảng thời gian từ ngày 01/5/2023 đến ngày 12/7/2023 chị đã trả tiền
gốc cho chị Thị C số tiền là: 39.000.000 đồng tiền gốc (trong đó trvào các
ngày: ngày 18/5/2023: 5.000.000đồng; ngày 26/5/2023: 10.000.000đồng; ngày
11/6/2023: 4.000.000 đồng; ngày 12/7/2023: 20.000.000 đồng. Tất cả đều qua số tài
khoản 221119808, ngân hàng Q (MB) của chị Thị C. Tổng số tiền gốc còn n
chưa trả của mã vay ngày 16/1/2023 là 261.000.000đồng. Chị chưa trả lãi đồng nào
của mã vay ngày 16/1/2023. Chị chị C chưa ký lập giấy chốt nợ, thanh toán nợ
với nhau lần nào của vay ngày 16/1/2023 chị chưa thu hồi lại giấy vay tiền
này.
- Chị khẳng định không vay chị Thị C số tiền 410.000.000 đồng ngày
30/04/2023. Hai bên không thỏa thuận với nhau là 4%/tháng (48%/năm).
Ch không thoả thuận về thời hạn vay do hai bên thỏa thuận 05 tháng kể t
ngày 30/04/2023 đến ngày 30/09/2023 như chị C trình bày. Chị cũng không giấy
nhận nợ của số tiền 410.000.000 đồng ngày 30/4/2023 như chC trình bày.
Nay chị chỉ đồng ý trả nợ gốc 261.000.000 đồng giấy vay tiền ghi ngày
16/1/2023 dương lịch lãi suất theo quy định 0,83%/tháng kể từ ngày vay
16/1/2023 dương lịch đến ngày xét xử sơ thẩm.
Chị không đồng ý trả nợ của số tiền 410.000.000 đồng ngày 30/4/2023 như
chị C trình bày.
Chồng chị là Đặng Văn D và chồng chị C Nguyễn Đức X1 không tham gia
vay nợ, không tham gia giao dịch, không liên quan đến tài sản chung vợ chồng nên
đề nghị không đưa tham gia tố tụng.
Chị đã nhận đầy đ c văn bản tống đạt của Tòa án. Ngoài ra chị không có
tranh chấp hoặc yêu cầu gì khác.
Với những nội nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2025/DS-ST ngày
20/02/2025 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang đã Căn cứ vào: Điều 194,
Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 469, khoản 2 Điều 470, Điều 357, khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, Điều 184, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân
sự; điểm a điểm b khoản 02 Điều 5 Nghị quyết số: 01/2019/NQ - HĐTP ngày
11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán TANDTC; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị C.
2. Buộc chị Phạm Thị H nghĩa vụ trả chị Thị C tổng số tiền là:
1.008.213.000 đồng (Trong đó: 904.463.000 đồng tiền gốc, 103.750.000 đồng tiền
lãi).
Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí, quyền yêu cầu thi hành án,
lãi suất chậm trả, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/3/2025 chị Phạm Thị H kháng cáo bản án, đ
nghị cấp phúc xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn
giữ nguyên kháng cáo, đề nghị HĐXX không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị
C về số tiền 410.000.000 đồng ngày 30/4/2023, vì không căn cứ, không giấy
vay hợp lệ. Các đương skhông cung cấp thêm chứng cứ, tài liệu gì mới, các đương
sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải
quyết vụ án từ khi th lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX,
Thư đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự thực
hiện đúng các quyền nghĩa v theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi xem
xét yêu cầu kháng cáo của chị Phạm Thị H, phân tích nội dung, các nh tiết của vụ
án. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng
dân sự không chấp nhận kháng cáo của Phạm Thị H, ginguyên bản án sơ thẩm:
07/2025/DS-ST ngày 20/02/2025 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang. Chị H
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ ván được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của chị Phạm Thị H, HĐXX thấy:
Giữa chị Vũ Thị C và chị Phạm Thị H có mối quan hệ quen biết, nên chị C đã
cho chị H vay tổng số tiền 910.000.000 đồng.
Đối với Giấy vay tiền ghi ngày 16/01/2023, chị Phạm Thị H thừa nhận có viết,
nhận nvay chC số tiền 500.000.000 đồng, phù hợp lời khai của chị C
người cho vay. Đến hạn trả nợ gốc ngày 18/01/2023, tchị H cho rằng đã trả cho
chị C số tiền gốc vào các ngày 30/4/2023 trả 200.000.000 đồng, ngày 18/5/2023 trả
5.000.000 đồng, ngày 26/5/2023 trả 10.000.000 đồng, ngày 11/6/2023 trả 4.000.000
đồng; ngày 12/7/2023 chị trả 20.000.000 đồng tiền gốc. Nhưng tất cả các lần trả nợ
này chị H không lập giấy chốt nợ, thanh toán nợ gốc, lãi với chị C lần nào của
vay ngày 16/01/2023. Chị C cũng không thừa nhận việc chị H đã trả 239.000.000
đồng trên trả tiền gốc như chị H trình bày. Mặt khác, các chuyển khoản chị
H cho rằng đã trả gốc 239.000.000 đồng cũng không ghi rõ nội dung chuyển khoản
là trnợ gốc mà ghi chuyển trả lãi vay của khoản vay nào. Giữa chị C và chị H
nhiều lần giao dịch vay tiền với nhau, nên xác định số tiền vay gốc ngày 16/01/2023
đến nay chị H chưa trả chị C 500.000.000đồng. Toà án cấp thẩm buộc chị Phạm
Thị H trả số tiền gốc 500.000.000 đồng cho chVũ Thị C là có căn cứ chấp nhận.
Đối với số tiền 410.000.000 đồng, vay ngày 30/4/2023: Tại phiên toà sơ thẩm
chị Phạm Thị H xuất trình bản gốc Giấy trả lãi ghi ngày 20/8/2023 do chị Phạm Thị
H viết tên bên vay, chị Thị C tên bên cho vay với nội dung:“Ngày
30/4/2023 tôi vay của C số tiền 410.000.000 đồng với tổng lãi đến ngày
hôm nay 20/8/2023 65.000.000 đồng nh đến ngày 30/8/2023. Số tiền đã trả là
60.000.000 đồng. Số tiền lãi còn nợ 5.500.000 đồng”. Chị H đã tự thừa nhận s
tiền vay trên và đến ngày 21/10/2023 chị H giấy biên nhận trả lãi 17.000.000
đồng của số tiền 410.000.000 đồng cho chị C là phù hợp với lời khai trình bày của
chị C. Giấy trả lãi ghi ngày 20/8/2023 này không nội dung nào chốt nợ, thanh
toán liên quan đến vay 500.000.000 đồng ngày 16/01/2023. Ngoài lời khai thì
chị H không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào khác. Nên không sở chấp
nhận ý kiến của chị H về việc ngày 20/8/2023 chốt nợ liên quan số tiền vay
500.000.000 đồng của giấy vay nngày 16/01/2023. Do vậy, sở xác định ngày
30/4/2023 chị Thị C cho chị Phạm Thị H vay 410.000.000 đồng tiền gốc. Toà
án cấp thẩm buộc chH trả chị C số tiền 410.000.000 đồng căn cứ chấp
nhận.
[2] Về lãi suất của số tiền vay gốc: Các đương sự thoả thuận lãi suất nhưng
không xác định lãi suất tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng
50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự tại thời
điểm trả nợ tương ứng lãi suất 0,83%/tháng.
Tiền lãi của stiền vay gốc 500.000.000đồng x 0,83%/tháng x 02 năm 01
tháng tính tròn thời gian (vay từ ngày 16/01/2023 tính tròn đến ngày xét xử sơ thẩm
20/2/2025) = 103.750.000 đồng, tiền lãi chị H phải trả chị C.
Tiền lãi của số tiền vay gốc 410.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 01 năm 9
tháng tính tròn thời gian (vay từ ngày 30/4/2023 tính tròn đến ngày xét xử thẩm
20/2/2025) = 71.463.000 đồng, tiền lãi chị H phải chị Vũ Thị C.
Ngày 20/8/2023 chị H đã trả lãi chC 60.000.000 đồng ngày 21/10/2023
chị H đã trả lãi chị C 17.000.000 đồng, tổng cộng là 77.000.000 đồng, được trừ vào
số tiền lãi 71.463.000 đồng của khoản vay gốc 410.000.000 đồng, chị H trả lãi thừa
tiền lãi 5.537.000 đồng, nên được trừ vào số tiền gốc 410.000.000 đồng gốc vay
ngày 30/4/2023. Tòa án cấp thẩm đã tính tiền lãi của số tiền vay trên sau đó được
đối trừ tiền i 77.000.000 đồng chị H đã trả cho chị C vào số tiền lãi, tiền gốc của
khoản vay trên là có căn cứ cần được chấp nhận.
[3] Ngoài việc giao dịch của hai mã vay trên tchị chThị C chPhạm
Thị H còn nhiều lần giao dịch tiền với nhau. Tòa án cấp thẩm đã ra Quyết định
yêu cầu cung cấpi liệu, chứng cứ số: 127/QĐ- CCTLCC, ngày 07/11/2024 nhưng
các bên không chứng minh được số tiền gốc, lãi chuyển khoản cho nhau nội dung
liên quan trực tiếp đến hai mã vay ngày 16/1/2023 và ngày 30/4/2023 nên không có
sở xem xét. Tại phiên toà phúc thẩm, bđơn chị Phạm Thị H không xuất trình
được tài liệu, chứng cứ gì khác để chứng minh cho việc kháng cáo, nên không có
sở chấp nhận kháng cáo của chH.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của chị Phạm Thị H không được
chấp nhận nên chH phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản
1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều
29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý, sdụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của chị Phạm Thị H, giữ nguyên bản án dân sự
thẩm số: 07/2025/DS-ST ngày 20/02/2025 của Tán nhân dân thành phBắc
Giang, tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án p
phúc thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tạm ng án phí đã nộp theo Biên lai thu số
0002441 ngày 11/3/2025 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- TAND. TP Bắc Giang;
- Chi cục THADS. TP Bắc Giang;
- Cổng thông tin điện tử TANDTC;
- Các đương sự;
- Lưu HS; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Tú
Tải về
Bản án số 84/2025/DS-PT Bản án số 84/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 84/2025/DS-PT Bản án số 84/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất