Bản án số 79/2025/DS-PT ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 79/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 79/2025/DS-PT ngày 17/06/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 79/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Hà Văn L khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Hà Duy Ch
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 79/2025/DS-PT
Ngày: 17 - 6 - 2025
V/v: Tranh chấp ranh giới, mốc
giới quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu.
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thúy Hằng, bà Đoàn Thị Hương Nhu
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Hồng Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tưởng - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số 10/2025/TLPT-DS ngày
17 tháng 02 m 2025 về việc “Tranh chấp ranh giới, mốc giới quyền sử dụng
đất”; do Bản án dân sự thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 02 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo; theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 52/2025/QĐ-PT ngày 16 tháng 4 m 2025,
Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2025/QĐ-PT ngày 15 tháng 5 năm 2025, Quyết
định hoãn phiên tòa số 64/2025/QĐ-PT ngày 29 tháng 5 năm 2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hà Trọng Lưu, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn La Tiến,
Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; mặt tại phần thủ tục bắt
đầu phiên tòa, tự ý rời khỏi phòng xử án không lý do trong giai đoạn tranh tụng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Hà Trọng Thông, sinh
năm 1982 chị Nguyễn Thị Hoài, sinh năm 1984; địa chỉ: S02/15 Nguyễn Đại
Năng, Khu 10, phường Thanh nh, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương;
mặt chị Hoài, anh Thông có đơn đề nghị vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn
Thu Hương, Lưu Tiến Hưng - Công ty Luật TNHH Bách Tín; địa chỉ: Số 31, Ngõ
22 Mạc Thái Tổ, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; có mặt.
- Bị đơn: Ông Hà Duy Chiêu, sinh năm 1971 và bà Hà Thị Lanh, sinh năm
1974; địa chỉ: Thôn La Tiến, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương;
có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
+ UBND huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; người đại diện theo pháp
luật: Chủ tịch UBND huyện Ninh Giang; vắng mặt.
+ UBND Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; người đại
diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND xã Tân Hương; có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
+ Bà Hà Thị Thềm, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn La Tiến, xã Tân Hương,
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
+ Ông Duy Đãi, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn 8, Ea Ô, huyện Ea
Kar, tỉnh Đăk Lăk; vắng mặt.
+ Ông Hà Duy Nhượng, sinh năm 1968; hiện đang chấp nh án phạt tù tại
Trại giam Xuân Nguyên - Cục C10 Bộ Công an; địa chỉ: Thành phố Thủy Nguyên,
thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
+ Chị Thị Huệ, sinh năm 1998; địa chỉ: Tân Hương, huyện Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.
+ Anh Trọng Thông, sinh năm 1982; chị Nguyễn Thị Hoài, sinh năm
1984; địa chỉ: Số 02/15 Nguyễn Đại Năng, Khu 10, phường Thanh Bình, thành
phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; mặt chị Hoài, anh Thông đề nghị vắng
mặt.
- Người làm chứng: Thị Nhanh, sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn La
Tiến, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương; có mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Hà Trọng Lưu
Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn Trọng Lưu người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông Hà Trọng Lưu, bà Phạm Thị Huê được UBND huyện Ninh Giang cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AM140297 ngày 01/9/2008, sử
dụng thửa đất số 204+204b, tờ bản đồ số 12, diện tích 260m2, địa chỉ: Ninh
Thành (nay Tân Hương), huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Thửa đất số
204b có cạnh phía Tây - Bắc giáp đất của gia đình cụ Đôn (hiện nay ông Hà Duy
Chiêu đang trực tiếp sử dụng). Do trước kia ông Lưu đã cho cụ Đôn mượn đất,
sau này ông Chiêu tiếp tục sử dụng mà không trả lại, lấn chiếm sang đất của ông
Lưu, tính tbức tường xây ranh giới về phía Nam thì ông Chiêu lấn sang gia đình
ông Lưu khoảng 30cm, với chiều dài thửa đất khoảng 13m, diện ch khoảng 05m
2
đất (Kết quả thẩm định 3,8 m
2
). Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án
ông Lưu yêu cầu Tòa án gia đình ông Chiêu phải phá dỡ một phần công trình nhà
cấp 4 để trả lại cho gia đình ông Lưu diện tích đất khoảng 05m
2
. Tại phiên tòa sơ
thẩm, ông Lưu yêu cầu gia đình ông Chiêu phải trả lại diện tích đất lấn chiếm theo
kết quả thẩm định lần thứ hai vào ngày 30/06/2024 có diện tích là 25,6 m
2
.
2. Bị đơn Duy Chiêu, Thị Lanh trình bày: Thửa đất 194, tờ bản đồ
số 06, diện tích 314m
2
, địa chỉ: Ninh Thành (nay Tân Hương)
GCNQSDĐ số A 966856, cấp ngày 11/12/1991, do UBND tỉnh Hải Hưng cấp
cho mẹ đẻ ông Chiêu cụ Đào Thị Xây, theo phong tục mẹ ông Chiêu lấy tên
3
chồng (Hà Duy Đôn) tên thường gọi, đồng thời khai ghi trong GCNQSDĐ
là Hà Thị Đôn. Thửa đất đã được cụ Đôn tách làm hai phần, một phần cho con cả
ông Duy Nhượng, vợ Thị Xuyền sử dụng đã được cấp GCNQSDĐ
năm 2000, diện tích đất còn lại cạnh phía Nam giáp đất ông Lưu đã ghi nhận
trong hồ địa chính mang tên Duy Chiêu nhưng chưa được cấp GCNQSDĐ.
Ranh giới đất của gia đình ông Chiêu gia đình ông Lưu đã sử dụng ổn định,
được ngăn cách bằng một nhà cấp 4 do cụ Đôn xây dựng từ năm 1995, thời điểm
này thửa đất ông Lưu đang sử dụng có hiện trạng là ao chưa xây dựng tường bao.
Tháng 2 năm 2022 ông Chiêu đã phá nhà cấp 4 để xây lại trên nền móng cũ.
Ông Lưu trình bày cho cụ Đôn mượn đất và sau đó lấn chiếm đất là không đúng
chính gia đình ông Lưu đã xây tường bao lấn chiếm sang đất của gia đình ông
Chiêu. Ông Chiêu có yêu cầu phản tố yêu cầu gia đình ông Lưu phá dỡ tường bao
công trình để trả lại cho ông Chiêu diện tích đất 23,4m
2
theo như kết quả
thẩm định. Ngoài ra ông Chiêu yêu cầu hủy toàn bộ GCNQSDĐ của ông Lưu gồm
có: GCNQSDĐ do UBND tỉnh Hải Hưng cấp cho ông Trọng Lưu vào năm
1991 đối với thửa đất số 195, 197, tờ bản đsố 6, diện tích 462m
2
; GCNQSDĐ
do UBND huyện Ninh Giang cấp cho ông Trọng Lưu, Phạm Thị Huê vào
năm 2006 đối với thửa đất số 204, tờ bản đồ số 12, diện tích 459m
2
; GCNQSDĐ
do UBND huyện Ninh Giang cấp cho ông Trọng Lưu, Phạm Thị Huê vào
năm 2008 đối với thửa đất số 204b, tờ bản đồ số 12, diện tích 86m
2
. Lý do hủy
GCNQSDĐ vì ông Lưu bà Huê chỉ được sử dụng diện tích đất của ông Lưu đăng
số thửa 197, không được sử dụng diện ch đất ao 195, việc cấp GCNQSDĐ
cho cả diện tích đất ao tập thể cho ông Lưu sử dụng là không đúng. Tại phiên tòa
sơ thẩm, ông Chiêu đã rút một phần yêu cầu phản tố, đề nghị HĐXX giữ nguyên
hiện trạng sử dụng đất, ranh giới tính từ chân móng công trình của hai nhà theo
như kết quả thẩm định, đối với yêu cầu phản tố hủy GCNQSDĐ của gia đình ông
Lưu ông Chiêu xin rút, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Ủy ban nhân dân huyện Ninh Giang cung cấp: Năm 1991, hộ bà Hà Th
Đôn và hộ ông Hà Trọng Lưu được đăng ký và cấp GCNQSDĐ lần đầu
(GCNQSDĐ do Ch tch UBND tnh Hải Hưng ký, đóng du xác nhận). Năm
2000, ông Hà Duy Nhượng (con Đôn) được cp GCNQSDĐ trên một phn
din tích đất đã đưc cấp GCNQSDĐ cho bà Hà Th Đôn năm 1991 (thửa đất s
110, t bản đồ s 12) và phn din tích còn li (thửa đất s 109, t bản đồ s 12)
chưa được cấp GCNQSDĐ, hiện tại ông Hà Duy Chiêu đang sử dụng. Năm 2006,
ông Hà Trọng Lưu đã đưc cấp GCNQSD đất, đến năm 2008 vợ chồng ông
Trọng Lưu làm th tc tng cho mt phn din tích đất cho anh Hà Trng Thông
và ch Nguyn Th Hoài. Tuy nhiên quá trình sử dụng đất và cấp GCNQSDĐ qua
các thời kỳ (tnăm 1991-2006) cho 02 hộ bà Đôn hộ ông Lưu có nhiều biến
động về diện tích, kích thước c cạnh thửa đất. Để xác đnh nguyên nhân ca các
biến động cn xem xét, đánh giá mc gii, ranh gii ca các thửa đất xy ra tranh
chp vi các thửa đất lin k và kh năng sai s trong quá trình tính toán kích
thưc, din tích gia các s liệu đo đạc th hin trên các loi bản đồ và hồ sơ địa
chính qua các thi kỳ. Do vậy đề nghị Toà án nhân dân huyện xem xét giải quyết
theo quy định của pháp luật.
4
4. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 02/12/2024, Tòa án
nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương quyết định: Chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trọng Lưu, buộc ông Duy Chiêu, bà
Thị Lanh và những người có quyền lợi liên quan thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
Đào Thị Xây (Hà Thị Đôn) trả cho ông Trọng Lưu diện tích 1,5m
2
đất.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Duy Chiêu, buộc gia đình
ông Hà Trọng Lưu, anh Hà Trọng Thông, chị Nguyễn Thị Hoài phải tháo dỡ một
phần bức tường tôn và mái tôn để trả lại cho ông Hà Duy Chiêu, bà Hà Thị Lanh
những người quyền lợi liên quan thuộc hàng thừa kế thứ nhất của Đào
Thị Xây (Hà Thị Đôn) diện tích 0,7m
2
+0,2m
2
đất. Nếu không tự nguyện tháo dỡ
sẽ bị cưỡng chế tháo dỡ và phải chịu chi phí tháo dỡ theo quy định của pháp luật.
Ranh giới giữa thửa đất số 109, tờ bản đ12 thửa đất số 204b, tờ bản đồ s12,
đều địa chỉ: Ninh Thành (nay Tân Hương), huyện Ninh Giang, tỉnh
Hải Dương là các đoạn từ B1, B2, B3, B4, B5 (Có đồ đo vẽ chi tiết ranh giới
đất kèm theo bản án). Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy toàn
bộ GCNQSDĐ mang tên ông Hà Trọng Lưu, bà Phạm Thị Huê. Ngoài ra bản án
còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 15/12/2024 nguyên đơn Trọng Lưu kháng cáo đề nghị sửa bản án
sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo; bị đơn
không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn; các đương sự trình bày ý
kiến như trong giai đoạn sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Tòa án
căn cứ bản đồ cấp GCNQSDĐ GCNQSDĐ năm 1991 để xác định ranh giới
giữa hai thửa đất là đường thẳng.
Người làm chứng Thị Nhanh xác định không trực tiếp chứng kiến vợ
chồng ông Lưu thỏa thuận cho cụ Đôn mượn đất chỉ nghe mọi người nói
chuyện như vậy. Gia đình bà Nhanh cùng một số hộ khác sử dụng ngõ phía Nam
đất của ông Lưu xác định không có việc ông Lưu hiến đất mở rộng ngõ.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn giữ nguyên bản án sơ
thẩm. Miễn án phí cho nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của nguyên đơn trong hạn luật định nên được chấp nhận xem
xét theo trình tự phúc thẩm. Tại cấp phúc thẩm Tòa án có nhận được đơn đề ngh
của Thị Nhanh về việc đề nghị giải quyết việc gia đình ông Chiêu lấn đất
của gia đình bà Nhanh. Nội dung yêu cầu của Nhanh không thuộc phạm vi giải
quyết vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, trường hợp giữa gia đình
Nhanh và gia đình ông Chiêu tranh chấp ranh giới, mốc giới quyền sử dụng đất
5
thì quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác. Tại
giai đoạn sơ thẩm, cấp sơ thẩm có thiếu sót trong công tác hành chính tư pháp tại
biên bản nghị án như phản ánh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn là đúng. Tuy không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng cấp
sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Ông Trọng Lưu được UBND tỉnh Hải Hưng cấp GCNQSDĐ ngày
11/12/1991, được sử dụng thửa đất s 195, 197, t bản đồ s 06, din tích 462 m
2
.
Theo bản đồ địa chính, Sổ mục kê, Biên bản xác định ranh giới, mốc giới của thửa
đất lập năm 1999 GCNQSDĐ do UBND huyn Ninh Giang cấp lại ngày
20/5/2006, thửa đất trên mang tên ông Hà Trọng Lưu, bà Phạm Thị Huê diện tích
459 m
2
, trong đó đt 240 m
2
, đất cây lâu năm 151 m
2
, đất ao 68 m
2
. Năm 2008
thửa đất được ông Lưu, Huê tách một phần cho con Trọng Thông Nguyễn
Thị Hoài 175 m
2
, diện tích đất còn lại ông Lưu, bà Huê sử dụng và được UBND
huyện Ninh Giang cấp GCNQSngày 01/9/2008 gồm thửa đất số 204+204b,
tờ bản đồ số 12, diện tích 260 m
2
, địa chỉ: xã Ninh Thành (nay là xã Tân Hương),
huyện Ninh Giang.
[2.2] Cụ Đào Thị Xây (chồng là Hà Duy Đôn), theo phong tục địa phương
cụ Xây lấy tên chồng tên thường gọi. Tại GCNQSDĐ do UBND tỉnh Hải Hưng
cấp ngày 11/12/1991 ghi tên cụ Hà Thị Đôn được sử dụng thửa đất số194, tờ bản
đồ số 06, diện tích 314m
2
, địa chỉ: Ninh Thành (nay xã Tân Hương). Theo
bản đồ địa chính, Sổ mục kê, Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất lập
năm 1999, 2000, thửa đất đã tách làm hai phần, một phần cho vợ chồng con trai
Duy Nhượng, Thị Xuyền sử dụng 301 m
2
(GCNQSDĐ năm 2000), diện
tích đất còn lại đăng số thửa 109, tờ bản đồ 12, diện tích 161 m
2
ông Duy
Chiêu khai sử dụng đất trong hồ địa chính nhưng chưa được cấp
GCNQSDĐ, do đó xác định thửa 109 đất vẫn thuộc quyền sử dụng của cụ Xây
(Đôn). Phần diện tích đất này có cạnh phía Nam giáp đất ông Lưu.
[2.3] Ông Lưu cho rằng trước đây gia đình ông Lưu cho cụ Đôn mượn đất
nhưng ngoài lời khai, ông Lưu không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng
minh trong khi phía bị đơn không thừa nhận. Tại phiên tòa, người làm chứng do
nguyên đơn đề nghị triệu tập Thị Nhanh xác định chỉ nghe mọi người i
chuyện chứ không trực tiếp chứng kiến cụ Đôn ông Lưu thỏa thuận cho nhau
mượn đất. Do vậy, cấp sơ thẩm không chấp nhận lời khai này của ông Lưu là
căn cứ.
[2.4] Thửa đất cụ Xây (Đôn) theo GCNQSDĐ cấp năm 1991 theo bản
đồ địa chính, Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất lập năm 1999 - 2000
và GCNQSDĐ gia đình ông Lưu cấp đổi GCNQSDĐ năm 2006 thì hai bên đã
xác định ranh giới một đường thẳng; lời khai của đương sự người làm chứng
phù hợp với kết quả thẩm định, xác định gia đình ông Chiêu đã xây dựng công
trình nhà cấp 4 từ năm 1995, gia đình ông Lưu xây bức tường ranh giới từ năm
1997, theo đó ranh giới bị gấp khúc tại điểm giao nhau giữa đầu nhà cấp bốn của
gia đình ông Chiêu đầu bức tường của gia đình ông Lưu. Tại thời điểm c bên
xây dựng các công trình, vật kiến trúc nêu trên làm ranh giới giữa hai thửa đất,
6
phía bên kia không phản đối, không tranh chấp. Như vậy ranh giới đất trên các
tài liệu trong hồ sơ địa chính không phản ánh đúng thực tế; quá trình sử dụng đất
hai gia đình đã tthống nhất xác lập ranh giới sử dụng đất ổn định từ năm
1995, 1997 cho đến nay, không tranh chấp nên cấp thẩm xác định ranh giới đất
theo ranh giới các bên tự thỏa thuận xác lập p ngoài cùng các công trình, vật
kiến trúc các bên xây dựng làm ranh giới phù hợp với Điều 175 và Điều 176
Bộ luật Dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án gia đình ông Lưu và con là anh
Thông, chị Hoài đã xây dựng thêm nhà tôn, trong đó có một phần bức tường tôn
và mái tôn nằm đè lên phần chân móng nhà cấp 4 của gia đình ông Chiêu, cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Chiêu, buộc gia đình ông Lưu phải tháo
dỡ công trình để trả lại đất cho gia đình ông Chiêu là phù hợp.
Với nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xác định kháng cáo của ông Lưu
không có căn cứ chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Ông Lưu kháng cáo không được chấp nhận nhưng
người trên 60 tuổi nên được miễn án p phúc thẩm theo Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định chế độ án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo kháng
nghị, Hội đồng xét xử không xét.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn Trọng Lưu. Giữ
nguyên Bản án dân sự thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 02/12/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
2. Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Hà Trọng Lưu.
3. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- TAND huyn Ninh Giang, tnh Hải Dương;
- Chi cc THADS huyn Ninh Giang;
- Lưu: HS, THS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TO PHIÊN T
Trn Hu Hiu
7
Tải về
Bản án số 79/2025/DS-PT Bản án số 79/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 79/2025/DS-PT Bản án số 79/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất