Bản án số 765/2018/HNGĐ-PT ngày 20/08/2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh về yêu cầu hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 765/2018/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 765/2018/HNGĐ-PT ngày 20/08/2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh về yêu cầu hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 765/2018/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/08/2018
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Sau khi ly hôn ông là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, luôn tạo điều kiện cho bà T đến thăm con theo thỏa thuận của hai bên là bà T sẽ đưa cháu Minh C2về nhà ngoại vào tối thứ sáu đến hết ngày chủ nhật, tối chủ nhật bà T phải mang trả con lại cho ông để thứ hai trẻ đi học; nhưng tại thỏa thuận ông có quy định trong trường hợp bình thường mới được mang trẻ C2đi về nhà ngoại, bà Tbất chấp trời mưa nắng hay trẻ có khóc la, bệnh tật hay không bà T vẫn đến mang con đi, làm cho tâm lý của trẻ không tốt. Vì vậy ông đưa con đi khám về tâm lý, bác sĩ khuyên nên hạn chế làm ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 765/2018/HNGĐ-PT
Ngày 20-8-2018
V/v tranh chấp thay đổi người trực
tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm
nom con
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Võ Thị Mỹ Hạnh.
Các Thẩm phán: Ông Lê Thọ Viên
Bà Nguyễn Lê Thiên Hương
- Thư phiên a: Ông Bùi Trường An Thư Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên
tòa: Ông Hồ Văn Cảm - Kiểm sát viên.
Trong ngày 20 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai v án thụ số 59/2018/TLPT-HNGĐ ngày 19
tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế
quyền thăm nom con”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 413/2018/HNGĐ-ST ngày 09 tháng 5 năm 2018 của
Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3254/2018/QĐ-PT ngày 25
tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hứa Đặng Thu T, sinh năm 1985. (có mặt)
Địa chỉ: 115 đường N, Phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hồng C1, sinh năm 1981. (có mặt)
Địa chỉ: C10-8 Chung cư N, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn - bà Hứa Đặng Thu T.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tóm tắt nội dung vụ án và quyết định của Bản án sơ thẩm như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2017 các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Hồng C1 trình bày:
Ông Hứa Đặng Thu T đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly
hôn số 1152/2016/QĐST-HNGĐ, ngày 02/12/2016 của Tòa án nhân dân quận T,
Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T một người con chung trẻ Nguyễn Minh
C2, sinh ngày 03/05/2014. Ông người trực tiếp nuôi con, T không phải cấp
dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn ông là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, luôn tạo
điều kiện cho bà T đến thăm con theo thỏa thuận của hai bên là bà T sẽ đưa cháu Minh
C2 về nhà ngoại vào tối thứ sáu đến hết ngày chủ nhật, tối chủ nhật bà T phải mang trả
con lại cho ông để thứ hai trẻ đi học; nhưng tại thỏa thuận ông quy định trong
trường hợp bình thường mới được mang trẻ C2 đi về nhà ngoại, T bất chấp trời
mưa nắng hay trẻ khóc la, bệnh tật hay không T vẫn đến mang con đi, làm cho
tâm lý của trẻ không tốt. Vì vậy ông đưa con đi khám về tâm lý, bác sĩ khuyên nên hạn
chế làm ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.
Trong quá trình chăm sóc con ông người trực tiếp chăm sóc nhưng T
không có sự trao đổi với ông về việc cho cháu đi học thêm ở bên ngoài. T và nhiều
người khác đến nơi ông sinh sống nói năng lớn tiếng, gây ồn ào trong khu dân cư.
Nhiều lần ông yêu cầu T cùng ông ngồi lại bàn bạc về việc thăm nom chăm
sóc con nhưng T không hợp tác mang con đi về nhà ngoại. Do không thỏa thuận
được với T nên ông khởi kiện yêu cầu hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con đối
với bà T.
Ông cho rằng trong thời gian ông trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, trẻ
Minh C2 phát triển bình thường, ông luôn tạo điều kiện tốt nhất cho con tạo thuận
lợi cho T thăm nom con, nên ông không đồng ý yêu cầu phản tố về việc thay đổi
quyền nuôi con của bà T đối với ông.
Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, Hứa Đặng
Thu T trình bày:
Bà và ông Nguyễn Hồng C1 đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly
hôn số 1152/2016/QĐST-HNGĐ, ngày 02/12/2016 của Tòa án nhân dân quận T,
Thành phố Hồ Chí Minh. Ông C1 một người con chung là trẻ Nguyễn Minh
C2, sinh ngày 03/05/2014. Ông người trực tiếp nuôi con, T không phải cấp
dưỡng nuôi con. Tại thời điểm ly hôn trẻ C2 chưa đủ 36 tháng tuổi, theo quy định của
pháp luật thì phải giao con cho m trực tiếp nuôi dạy nhưng với sự vận động, giải
thích pháp luật của Thẩm phán sự cam kết của ông C1 nên cùng ông C1 thỏa
thuận về việc thăm nom con chung, do đó đồng ý giao con chung cho ông C1 trực
3
tiếp nuôi dưỡng. Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dạy tạm thời, T
quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con bất cứ vào thời gian nào cho đến khi con
chung đủ 18 tuổi. Ngoài ra giữa bà và ông C1 có lập thỏa thuận về việc T đến thăm
nom, chăm sóc và đưa con đi chơi về nhà ngoại. Thời gian đầu ông C1 luôn hợp tác và
tạo điều kiện cho bà thăm nom đưa đón con, nhưng sau khi trẻ C2 đủ 36 tháng tuổi thì
ông C1 sự thay đổi những biểu hiện, hành vi gây cản trở cho trong việc
thăm nom đưa đón con. Trong thời gian sống tại nhà ông C1, ông C1 gây sức ép với
con làm cho con cảm thấy sợ mẹ. Khi T đón con về nhà ngoại thì con hoàn toàn
không có biểu hiện sợ sệt ai cả mà vui chơi thoải mái, trẻ C2 thường nói với bà là cháu
muốn với mẹ không muốn về nhà với ba. Ông C1 tự mình đưa con đi khám bác
sỹ về m y sức ép với T, giáo dục con với ý nghĩ không thích gần mẹ, cố
tình cản trở đến thăm con. Do đó việc giao con chung cho ông C1 tiếp tục nuôi
dưỡng là không còn phù hợp.
Hai bên đã có thỏa thuận về nuôi dưỡng và thăm nom, chăm sóc con nhưng ông
C1 không thực hiện, luôn tìm cách y khó khăn cản trở khi đưa con về nhà
ngoại chơi, đã nhiều tuần bà không được đón con. đến trường thăm con thì ông C1
tìm cách cản trở. Trẻ C2 hơn 04 tuổi, trẻ n quá nhỏ nên cần sự quan tâm, chăm
sóc nuôi ỡng trực tiếp của người mẹ, ông C1 đã không thực hiện thỏa thuận
cản trở thăm con; hiện bà có nơi ở và thu nhập ổn định nên yêu cầu phản tố thay
đổi quyền nuôi con đối với ông C1, để trực tiếp nuôi dưỡng trẻ C2, không yêu cầu
ông C1 cấp dưỡng nuôi con.
Tại bản án sơ thẩm số 413/2018/HNGĐ-ST ngày 09 tháng 5 năm 2018 của Tòa
án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28, Điểm b Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1
Điều 147, Điều 217, Điều 244, Điều 245 Khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 116 Điều 117 Luật Hôn nhân
Gia đình;
Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của Hứa Đặng Thu T về việc
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi lyn.
Giao con chungtrẻ Nguyễn Minh C2, sinh ngày 03/05/2014 cho ông C1 trực
tiếp nuôi ỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho T do ông C1 không
yêu cầu.
4
Khi do chính đáng, mức cấp dưỡng phương thức cấp dưỡng nuôi con
có thể thay đổi.
Bà T được quyền thăm nom con không ai được cản trở.
lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án thể quyết
định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hồng C1 về việc
hạn chế quyền thăm nom con.
3. Án phí dân sự thẩm: Bà Hứa Đặng Thu T phải chịu 300.000 đồng được
trừ vào số tiền 300.000 đồng T đã tạm nộp theo biên lai số 0010088 ngày
06/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T. Hoàn lại cho ông C1 số tiền
300.000 đồng theo biên lai thu số 0009889 ngày 10/10/2017 của Chi cục Thi hành án
dân sự quận T.
Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án
theo luật định.
Ngày 18/05/2018, bị đơn Hứa Đặng Thu T kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm về việc trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Nguyễn Hồng C1 trình bày:
Sau khi ly hôn ông luôn tạo điều kiện cho T thăm đưa con về nhà ngoại
chơi, ông còn chủ động chở con sang nhà ngoại, khi T sang đón con thì con
khóc không muốn theo mẹ, ông không cấm cản con sang nhà ngoại chơi nhưng do
cháu biểu hiện không thích đi, chứ bản thân ông không ngăn cản như T trình
bày. Ông xác nhận vào thời điểm ly hôn ông người viết giấy thỏa thuận tại Tòa về
việc chăm sóc đưa đón con sau khi ly hôn T đồng ý tên vào, ông đã thực
hiện như thỏa thuận của hai bên. Do những lần T đón con, con khóc trẻ biểu
hiện không muốn đi nên ông không để trẻ đi. Tại thỏa thuận ghi nhận T đón con
“trong điều kiện bình thường của cháu” nên việc trẻ khóc la, không muốn đi cùng mẹ,
cháu không vui vẻ đi cùng mẹ, nên vậy T không đón được con. Tại Tòa ông xác
nhận ông vừa mới lập gia đình vào tháng 06/2018, hiện vợ ông đang cùng chung sống
với ông trẻ C2; sau phiên tòa thẩm T điện thoại đến yêu cầu đưa con về
nhà ngoại nhưng T đến trễ nên ông không biết T đón không, vậy ông đưa
trẻ C2 sang nhà bạn chơi. Ông cho rằng ông không cản trở T thăm nom chăm sóc
con nên ông không đồng ý giao con chung là trẻ C2 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.
Bà Hứa Đặng Thu T trình bày:
chung sống kết hôn với ông C1 vào năm 2013, sinh trẻ C2 vào năm
2014, trong cuộc sống hôn nhân ông C1 luôn tạo áp lực đối với bà, gia đình bắt đầu
5
mâu thuẫn, bà không đồng ý cuộc sống nhiều áp lực và hà khắc, buộc lòng bà phải nộp
đơn ly hôn. Tại thời điểm ly hôn trẻ C2 chưa đủ 36 tháng tuổi, theo luật thì được
trực tiếp nuôi con nhưng bà không được Thẩm phán giải quyết vụ án giải thích về việc
này, sau khi được sự động viên của Thẩm phán và bà sợ ông C1 ảnh hưởng đến bà
con cùng gia đình cha mẹ , đồng thời ông C1 thỏa thuận cho mang con về vào
cuối tuần nên bà buộc lòng giao con cho ông nuôi dạy trực tiếp. Trẻ C2 khi chưa đủ 36
tháng tuổi thì ông C1 tgiác chở con sang nhà vào mỗi cuối tuần, sau khi trẻ hơn
36 tháng tuổi thì ông C1 không chở con sang nhà nữa buộc phải sang đón
con tại nhà của ông. Sau nhiều lần sang đón con nhưng ông C1 không hợp tác
tìm mọi lý do để bà không đón được con nên bà nhờ chính quyền địa phương can thiệp
thì mới đón được con về nhà. Ông C1 người trực tiếp nuôi dạy con nhưng ông
làm ảnh hưởng đến tâm của con để con thái độ sợ me, nên nghi ngờ về việc
ông nuôi dạy con không tốt. Ông C1 nộp đơn đến Tòa yêu cầu hạn chế quyền thăm
nom, chăm sóc con của bà, cho thấy ông đã không tuân thủ cam kết. Ông C1 không
còn giữ đúng thỏa thuận về việc chăm sóc, nuôi dạy con chung sau ly hôn
ông C1 đã kết, nên yêu cầu thay đổi quyền nuôi con đối với ông C1, giao trẻ C2
cho bà trực tiếp nuôi dạy và không yêu cầu ông C1 cấp dưỡng nuôi con.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa
phúc thẩm phát biểu trình bày ý kiến:
Về tố tụng:
Tòa án nhân dân quận T đưa vụ án ra xét xử ngày 09/05/2018, ngày 18/05/2017
T kháng cáo. Căn cứ Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự kháng cáo trong
hạn luật định.
Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, những người tiến
hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các đương
sự đã thực hiện đầy đủ các quyền nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
Về nội dung:
Tại phiên tòa chứng cứ tại hồ cho thấy ông C1 đã không còn tuân thủ
thỏa thuận giữa hai bên đã ký kết vào ngày 26/11/2016, nên việc bà T yêu cầu thay đổi
quyền nuôi con đối với ông C1 sở. Bà T hiện nơi ổn định, công việc
thu nhập ổn định nên đủ điều kiện đnuôi dạy con. Đề nghị hội đồng xét xử
giao trẻ Nguyễn Minh C2 cho T trực tiếp nuôi dạy, ông C1 không phải cấp dưỡng
nuôi con do bà T không yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm
nhận định:
6
Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của Hứa Đặng Thu T làm trong thời hạn luật định hợp lệ
nên được chấp nhận xem xét.
Ngày 09/10/2017, ông Nguyễn Hồng C1 khởi kiện yêu cầu hạn chế quyền thăm
nom, chăm sóc con chung đối với Hứa Đặng Thu T; ngày 06/11/2017, T đơn
yêu cầu phản tố thay đổi quyền nuôi con đối với ông C1; ngày 22/11/2017, Tòa án
thẩm tiến hành hòa giải; ngày 01/12/2017, ông C1 rút đơn yêu cầu khởi kiện.
Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ giải
quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông C1, bị đơn T trở thành
nguyên đơn, ông C1 nguyên đơn trở thành bị đơn. Tòa án cấp thẩm không xem
xét, không xác định lại cách tố tụng của đương sự trong vụ án thiếu xót, cần phải
khắc phục.
Về nội dung kháng cáo:
T kháng cáo bản án thẩm, yêu cầu được nuôi con chung trẻ Nguyễn
Minh C2, sinh ngày 03/05/2014 và không yêu cầu ông C1 cấp dưỡng nuôi con.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét:
Việc chăm sóc, nuôi dạy con chung chưa thành niên trách nhiệm nghĩa vụ
cũng quyền lợi của cha mẹ, việc các bên đương sự tranh chấp nuôi con chung sau
khi ly hôn cũng là xuất phát từ tình thương yêu của cha mẹ đối với con cái, nhưng giao
cho ai người trực tiếp nuôi dạy con chung tphải xem xét đến quyền lợi của trẻ để
trẻ phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành công dân ích cho
hội.
Ông C1 T thuận tình ly hôn, theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn
số 1152/2016/QĐST-HNGĐ, ngày 02/12/2016 của Tòa án nhân dân quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh. Ông C1 T một người con chung trẻ Nguyễn Minh C2,
sinh ngày 03/05/2014. Ông C1 là người trực tiếp nuôi con, bà T không phải cấp dưỡng
nuôi con. Tại thời điểm ly hôn trẻ C2 chưa đủ 36 tháng tuổi, theo quy định của pháp
luật thì phải giao con cho mẹ trực tiếp nuôi dạy nhưng với sự vận động của Tòa án
T đã giao con chung cho ông C1 trực tiếp nuôi dạy ông C1 cùng T cam kết thỏa
thuận thăm nom con chung sau khi ly hôn. Sau khi trẻ C2 đã đủ 36 tháng tuổi thì hai
bên đã xảy ra tranh chấp trong việc thăm nom và đưa đón con. Ông C1 thì cho rằng
T lợi dụng việc thăm nom con để gây cản trở việc ông trực tiếp nuôi con, nên ông khởi
kiện yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con của bà T. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì bà
T phản tố yêu cầu thay đổi quyền nuôi con đối với ông C1 do ông C1 không thực hiện
đúng thỏa thuận của hai bên.
Tại buổi hòa giải ngày 24/11/2016 tại Tòa án nhân dân quận T, ông C1 T
làm giấy thỏa thuận về việc thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn, giấy
thỏa thuận do ông C1 lập nội dung: “… Vviệc tạo điều kiện cho cháu được sang
thăm ông ngoại vào mỗi cuối tuần cụ thể là từ tối thứ sáu đến trước 19 giờ chủ nhật
7
trong điều kiện bình thường của cháu… ”. Như vậy cả hai đã sự thỏa thuận về việc
nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn.
Theo ông C1 thì ông cho rằng T cản trở ông trong việc ông nuôi dưỡng con
chung, theo thỏa thuận thì T chỉ được đón cháu trong điều kiện bình thường. Tại
Tòa án cấp thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm ông lời khai T cứ theo
thỏa thuận là mang con đi mà không cần quan tâm đến con đang khóc, không quan tâm
đến cảm xúc của con, không chú ý đến tâm trạng, sức khỏe của con, ngày hôm đó con
vui hay buồn, con thích đi cùng mẹ hay lại với ba. Tại đơn khởi kiện ông C1 trình
bày sau khi bà T đưa con về nhà ngoại chơi cháu bị sốt thì ông buộc bà T mang con trả
lại cho ông chăm sóc, T không thực hiện thì ông cho rằng T không hợp tác để
nuôi dạy con chung.
Cháu Nguyễn Minh C2 hơn 03 tuổi, cả tuần cháu với ba cuối tuần về với mẹ,
theo đúng ra ông C1 phải hỗ trợ giúp đỡ cho T được đón cháu thuận lợi hơn
nhưng ông cho rằng cháu khóc không muốn theo mẹ, m cháu không thích với
mẹ mà thích với ba hơn, với độ tuổi y thì một đứa khóc la, hay bệnh tật bình
thường, không thể cho rằng đây là trong điều kiện không bình thường của trẻ để không
cho T đón con như thỏa thuận của hai bên đã kết. T lời khai khi trẻ C2
chưa đủ 36 tháng tuổi thì ông C1 hợp tác trong việc bà đón con nhưng sau khi con hơn
36 tháng tuổi thì ông y khó khăn cho bà trong việc đón con vào mỗi cuối tuần, nhiều
tuần không đón được con. Như vậy theo ông C1 khi trẻ C2 vui vẻ, thích thú
không khóc nhè thì bà T mới đón cháu được, với suy nghĩ như trên ông đã cản trở bà T
đón con, ông đã nộp đơn đến Tòa yêu cầu hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con
của T, T được thăm con khi sự đồng ý của ông (Đơn khởi kiện bút lục 44
45); ông đã vi phạm sự thỏa thuận của hai bên được quy định tại giấy thỏa thuận ngày
24/11/2016 (bút lục 40).
Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy ông C1 đã vi phạm thỏa thuận của hai bên
về việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Tòa án cấp thẩm cho rằng T không
chứng cứ chứng minh ông C1 cản trở bà thăm nom nuôi dưỡng con là thiếu xót.
Tại TòaT cung cấp chứng cứ về nơi và công việc, thu nhập của bà cho thấy
đủ điều kiện về nơi công việc, thu nhập ổn định để nuôi con, hiện nay ông
C1 đã kết hôn (vào ngày 02/06/2018); trẻ C2 hiện còn nhỏ hơn 04 tuổi, ông C1 đã lập
gia đình mới vì vậy cần giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi con chung là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con T không yêu cầu, nên hội đồng xét xử không xem
xét.
vậy yêu cầu kháng cáo của T sở nên hội đồng xét xử phúc thẩm
chấp nhận cần xem xét sửa án sơ thẩm.
Các phần khác của bản án thẩm không bị kháng nghị kháng cáo nên hội
đồng xét xử phúc thẩm không xét.
Về án phí:
8
Án phí dân sự thẩm: Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự
căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng
án phí lệ phí Tòa án; thì T phải nộp án phí thẩm 300.000 đồng. Hoàn lại
tạm ứng án phí cho ông C1.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do chấp nhận đơn kháng cáo của bà T nên T
không phải chịu án phí phúc thẩm.
Với những chứng cứ kể trên, hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/07/2016;
- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 37, Khoản 4 Điều 147, Khoản
1 Điều 228, Điểm a Khoản 2 Điều 478, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/07/2016;
- Căn cứ Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 116 Điều 117
Luật Hôn nhân và Gia đình có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015;
- Căn cứ vào Pháp lệnh án phí lệ phí Tòa Án Ngh quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Sửa bản án sơ thẩm.
1/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của Hứa Đặng Thu T về việc thay đổi quyền
nuôi con đối với ông Nguyễn Hồng C1.
Giao con chung trẻ Nguyễn Minh C2, sinh ngày 03/05/2014 (giới tính nam)
cho T trực tiếp nuôi dạy, ông C1 không phải cấp dưỡng nuôi con do T không
yêu cầu. Ông C1 phải trách nhiệm giao trẻ Nguyễn Minh C2 cho bà T ngay khi án
có hiệu lực thi hành.
Ông C1 quyền nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục
con mà không ai được cản trở.
T quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông C1 nếu
ông C1 lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích, Cơ quan Quản
Nhà nước vGia đình, quan Quản Nhà ớc về Trẻ em, Hội liên hiệp Phụ
nữ, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
9
Khi do chính đáng, mức cấp dưỡng thể thay đổi. Việc thay đổi mức
cấp ỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết.
2/ Về án phí:
2.1/ Án phí dân sự thẩm: Hứa Đặng Thu T phải nộp 300.000 đồng,
được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí T đã nộp theo biên lai số
AA/2017/0010088, ngày 06/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.
Hoàn lại cho ông C1 số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số
AA/2017/0009889, ngày 10/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành
phố Hồ Chí Minh.
2.2/ Án phí dân sự phúc thẩm: T không phải nộp án phí. Hoàn lại số tiền
tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0011106 ngày
21/05/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cho
T.
Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND Tối cao;
- TAND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- TAND quận T;
- Chi cục THADS quận T;
- Các đương sự;
- Lưu: VT; Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Thị Mỹ Hạnh
Tải về
Bản án số 765/2018/HNGĐ-PT Bản án số 765/2018/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất