Bản án số 73/2022/HS-ST ngày 27/10/2022 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 73/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 73/2022/HS-ST ngày 27/10/2022 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sầm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 73/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/10/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 27/10/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 10 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 73/2022/TLST- HS ngày 12 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2022, đối với:

Bị cáo: Vũ Đình Th - Sinh năm 1990.

ĐKHKTT: Tổ dân phố K, phường Q, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Vũ Đình C và bà Nguyễn Thị L; Bố, mẹ bị cáo sinh đượcc 04 người con, bị cáo Thành là con thứ 3 trong gia đình; vợ: Lê Thị Năm, có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án; Tiền sự: Không.

Tạm giữ từ ngày 05/8/2022 đến ngày 08/8/2022, sau đó tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Sau đó bị áp D biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện mà túy số 01 Thanh Hóa. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc Tr, là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Nhà nước pháp lý tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.

- Bị hại: Lê Thị Thùy D - sinh năm 2007.

Người giám hộ (Người làm chứng) cho cháu D, ông: Lê Đình Ch - sinh năm 1975.

Địa chỉ: Tổ dân phố V, phường Q, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đều vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Phạm Gia L - sinh năm 1991.

Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường Q, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2. Bùi Thị L - sinh năm 1957.

Địa chỉ: Tổ dân phố V, phường Q, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 ngày 05/8/2022, Vũ Đình Thành điều khiển xe máy rủ Phạm Gia L đi vay tiền để mua ma túy sử dụng, sau đó L điều khiển xe máy chở Thành đến nhà bà Bùi Thị L (là bác họ Thành) ở tổ dân phố V, phường Q, thành phố Sầm Sơn, để Thành hỏi vay tiền, nhưng bà L không có tiền cho vay. Lúc này L ngồi ở lại nhà bà L uống nước, Thành sang nhà anh Lê Đình Ch (là anh họ Thành) để tiếp tục hỏi vay tiền. Khi đến nhà anh Ch, Thành gọi nhiều lần nhưng không có ai trả lời nên Thành nảy sinh ý định vào trong nhà tìm tài sản để trộm cắp. Thành đi vào trong phòng ngủ của vợ chồng anh Ch, thấy có một con lợn đất màu đỏ của cháu Lê Thị Thùy D (là con gái anh Ch) để trong ngăn kéo bàn trang điểm, Thành cầm con lợn đất lên lắc biết bên trong có tiền, nên Thành trộm cắp con lợn đất mang ra khu vực nhà tắm nhà anh Ch, đập con lợn đất xuống nền nhà tắm và lấy toàn bộ số tiền 15.750.000 đồng của cháu Lê Thị Thùy D, Thành cởi áo đang mặc bỏ toàn bộ số tiền 15.750.000 đồng vào trong áo và ném các mảnh vỡ của lợn đất qua ô thoáng của nhà tắm, khi Thành đang trên đường ra về thì bị anh Ch và Công an phường Q, thành phố Sầm Sơn phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 15.750.000 đồng (đã niêm phong); 01 xe máy điện biển kiểm soát 36AA-X; 01 chiếc áo cọc tay màu đen vàng trắng đỏ, trên áo có dòng chữ FMARKGVS và dòng chữ FMOK và 06 mảnh vỡ của lợn đất (thu giữ khi kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc).

Tại bản kết luận giám định số 2777/KL-PC09, ngày 16/8/2022 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 149 tờ tiền Việt Nam đồng gửi giám định là tiền thật.

Về vật chứng của vụ án: Chiếc xe máy F1 YAMAHA , BKS: 36AA- X, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị Lê Thị Năm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Năm.

Số tiền Việt Nam là 15.750.000 đồng, sau khi giám định, Cơ quan điều tra đã trả lại cho cháu Lê Thị Thùy D, sau khi nhận lại tiền cháu D không có ý kiến, yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Vũ Đình Thành.

Một con lợn bằng đất do Thành đã đập vỡ để lấy tiền, do đã mua từ lâu, đã cũ, nên cháu Lê Thị Thùy D không yêu cầu bồi thường.

01 chiếc áo cọc tay màu đen vàng trắng đỏ, trên áo có dòng chữ FMARKGVS và dòng chữ FMOK và 06 mảnh vỡ của lợn đất. Hiện đang được bảo quản theo hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số: 80/CTr-VKS-HS ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa truy tố Vũ Đình Thành, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt Vũ Đình Thành, mức án từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính ngày bắt giam thi hành án, nhưng được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ tính từ ngày ngày 05/8/2022 đến ngày 08/8/2022.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: - Số tiền 15.750.000 đồng, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho cháu Lê Thị Thùy D, sau khi nhận lại tiền cháu D không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

- Đối với chiếc xe máy điện biển kiểm soát 36AA-X. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị Lê Thị Năm, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Năm, sau khi nhận lại xe chị Năm không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

- 01 chiếc áo cọc tay màu đen vàng trắng đỏ, trên áo có dòng chữ FMARKGVS và dòng chữ FMOK, bị cáo đã sử dụng cũ không có nhu cầu nhận lại và 06 mảnh vỡ của lợn đất, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, nguồn thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn tiền phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trợ giúp viên pháp lý có quan điểm bào chữa cho bị cáo: Thống nhất về tội danh, điều luật áp như cáo trạng và Bản Luận tội của Viện kiểm sát, nhưng xét thấy bị cáo thuộc trường hợp được hưởng chính sách pháp luật của Nhà nước là thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí, lệ phí Tòa án và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được qui định tại điểm i điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS để xử Vũ Đình Thành ở mức án thấp nhất của khung hình phạt, mở lượng khoan hồng cho bị cáo để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội trở thành người công dân lương thiện.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát và quan điểm bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý.

Trước khi HĐXX vào nghị án bị cáo không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện điều tra, truy tố đúng theo quy định của pháp luật. Qúa trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì và không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện ma túy, lười nhác lao động, không chịu rèn luyện bản thân nhưng muốn có tiền để tiêu sài và mua ma túy sử dụng nên vào hồi 09 giờ 10 phút ngày 05/8/2022, bị cáo Thành vào phòng ngủ của gia đình anh Lê Đình Ch, ở tổ dân phố V, phường Q, thành phố Sầm Sơn, trộm cắp số tiền 15.750.000 đồng đựng trong một con lợn đất của cháu Lê Thị Thùy D (là con gái anh Ch), sau đó bị phát hiện bắt quả tang.

Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo Văn Đình Cường, về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, bất bình đối với quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn dân cư, nên cần phải có đường lối xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thì thấy rằng: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hiện nay đang bị áp D biện pháp xử lý vi phạm hành chính theo quyết định số 40/2022/QĐ-TA ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân nhân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo ý thức chấp hành pháp luật là rất kém, không chịu rèn luyện bản thân. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản trộm cắp được chưa kịp mang đi tiêu thụ thì bị cơ quan chức năng phát hiện bắt quả tang và đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo được hưởng tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo, nhưng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[5].Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

[6].Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do nguồn thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7].Về xử lý vật chứng và án phí: Cần xem xét xử lý theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ: - Khoản 1 Điều 173; điểm i điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Điều 61; Điều 62; Điều 331; Điều 333; Điều 106 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Vũ Đình Th, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Vũ Đình Th, 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ tính từ ngày 05/8/2022 đến ngày 08/8/2022.

Miễn thời gian chấp hành cai nghiện còn lại của Quyết định số:

40/QĐ-TA ngày 21/9/2022 về việc “Áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính” của Tòa án nhan dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 Thanh Hóa. Địa chỉ: Xã Hoằng Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, kể từ khi bắt giam Thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo cọc tay màu đen vàng trắng đỏ, trên áo có dòng chữ FMARKGVS và dòng chữ FMOK và 01 túi đựng 06 mảnh vỡ của lợn làm bằng đất theo biên bản mô tả giao nhận vật chứng số: 04/BBVC-CCTHA ngày 11/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo Vũ Đình Th, được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Đình Th, có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại UBND phường Q, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Tải về
Bản án số 73/2022/HS-ST Bản án số 73/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất