Bản án số 71/2022/HS-ST ngày 15/03/2022 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 71/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 71/2022/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 71/2022/HS-ST ngày 15/03/2022 của TAND TP. Dĩ An, tỉnh Bình Dương về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Dĩ An (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 71/2022/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/03/2022 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 71/2022/HS-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 3 năm 2022 tại Hội trường B, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST-HS ngày 01/3/2022 đối với bị cáo:
Lê Hồng Ph, sinh năm 1994 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Tổ 2, T, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Con ông Lê Tư H, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Kim Nh, sinh năm 1977; bị cáo có 01 em sinh năm 1998; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 12/12/2013 bị UBND thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng theo QĐ số 9088, đến ngày 30/9/2015 được miễn chấp hành thời gian còn lại theo QĐ số 30.
- Ngày 14/4/2020: Gây rối trật tự công cộng (Điều 318) bị Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 118/QĐ/XPHC.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/10/2021. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Kim Nh, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ 2, T, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Trần Văn T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 16/10/2021, bị cáo Ph điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sonic biển số: 61C1-833.35 (số khung: MH1KB1116JK152719, số máy: KB11E1152159) chở theo Trần Văn T đi từ nhà của mình đến khu vực đường Mỹ Phước - Tân Vạn, đoạn giao với đường Nguyễn Thị Minh Khai thuộc khu phố Tân Phước, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tại đây, bị cáo Ph gặp một người đàn ông tên Hiếu (không rõ nhân thân, lai lịch) và hỏi mua ma túy đá với số tiền 6.000.000đ (sáu triệu đồng), Sau khi nhận tiền, người đàn ông tên Hiếu đưa cho Ph một túi nilon chứa ma túy đá, Ph cất giấu túi nilon chứa ma túy vào túi quần trước bên phải của mình, sau đó chở Trần Văn T về. Khi đến chốt kiểm dịch Covid - 19 trên đường Mỹ Phước - Tân Vạn, khu phố Tân Phước, phường Tân Bình, thành phố Dĩ An, Bình Dương thì bị lực lượng Công an phường Tân Bình yêu cầu dừng xe kiểm tra và lực lượng Công an phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của Lê Hồng Ph có 01 (một) túi nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, Ph khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá được Ph mua về nhà để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa Lê Hồng Ph và Trần Văn T về trụ sở Công an phường Tân Bình làm việc và bị cáo Ph đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đối với Trần Văn T là người cùng đi với bị cáo Ph nhưng không biết việc bị cáo Ph chở mình đi mua ma túy và cũng không tham gia đóng góp tiền hay bàn bạc với Ph để cùng đi mua ma túy. Bản thân Trần Văn T có sử dụng ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An ra Quyết định xử phạt hành chính Trần Văn T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Tang vật thu giữ:
- 01 gói nilon miệng kéo dính có ghi số 250, bên trong chứa tinh thể màu trắng có khối lượng: 24,7909 gam.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Sonic, biển số: 61C1-833.35 (số khung: MH1KB1116JK152719, số máy: KB11E1152159).
Tại bản Kết luận giám định số 692/MT-PC09 ngày 25/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 túi nilon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng có khối lượng: 24,7909 gam, là ma túy loại Methamphetamine.
Tại cáo trạng số 65/CT-VKS-DA ngày 18 tháng 02 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Hồng Ph về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Hồng Ph mức án từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) năm tù.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với bì thư đã niêm phong, bên trong có 24,2261 gam ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật còn lại sau giám định đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Sonic biển số: 61C1 833.35, số khung: MH1KB1116JK152719, số máy KB11E1152159. Qua xác minh được biết chiếc xe trên do bà Nguyễn Kim Nh là chủ sở hữu, bà Nh không biết Ph sử dụng xe này làm Ph tiện mua ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại xe cho bà Nguyễn Kim Nh.
Đối với người đàn ông tên Hiếu bán ma túy cho Ph do chưa xác minh được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
Tại phiên tòa bị cáo vắng mặt nên không thực hiện phần tranh luận.
Trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nh hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Sơ đồ hiện trường và Kết luận giám định số 692/MT-PC09 ngày 25/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Như vậy, hành vi cất giấu 24,7909 gam ma túy loại Methamphetamin của bị cáo Ph đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 65/CT-VKS-DA ngày 18 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nh trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không
[5] Tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nh một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
[6] Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy.
[7] Xử lý vật chứng:
Xét, 01 bì thư được niêm phong số 692/PC09, bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine; khối lượng 24,2261 gam là mẫu vật còn lại sau giám định là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Sonic biển số: 61C1 833.35, số khung: MH1KB1116JK152719, số máy KB11E1152159 do bà Nguyễn Kim Nh là chủ sở hữu, bà Nh không biết Ph sử dụng xe này làm phương tiện mua ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại xe cho bà Nguyễn Kim Nh là đúng quy định pháp luật.
[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[10] Đối với người đàn ông tên Hiếu bán ma túy cho Ph do chưa xác minh được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
[11] Đối với Trần Văn T là người cùng đi với bị cáo Ph nhưng không biết việc Ph đi mua ma túy và cũng không tham gia đóng góp tiền hay bàn bạc với Ph để cùng đi mua ma túy. Bản thân Trần Văn T có sử dụng ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An ra Quyết định xử phạt hành chính Trần Văn T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định pháp luật.
[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Lê Hồng Ph phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Lê Hồng Ph 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong số 692/PC09, bên trong chứa ma túy loại Methamphetamine; khối lượng 24,2261 gam là mẫu vật còn lại sau giám định.
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/02/2022).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Lê Hồng Ph phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!