Bản án số 680/2024/HC-PT ngày 02/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 680/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 680/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 680/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 680/2024/HC-PT ngày 02/07/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 680/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/07/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | 1. Bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y. 2. Giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm số 142/2023/HC-ST ngày 14/9/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 680/2024/HC-PT
Ngày 02 tháng 7 năm 2024.
V/v khiếu kiện quyết định hành chính
về việc thu hồi, hỗ trợ, bồi thường về
đất và cưỡng chế thu hồi đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Các thm phán: Ông Nguyễn Hồ Tâm Tú
Ông Trần Ngọc Tuấn
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Quang Hiển - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Võ Phong Lưu - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 27 tháng 6 và 02 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính
thụ lý số 290/2024/TLPT-HC ngày 15 tháng 3 năm 2024 về việc u kin quyt
c thu hi, h tr bng v ng ch thu
h.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 142/2023/HC-ST ngày 14/9/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2073/2024/QĐ-PT ngày
10 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
1.1. Ông Lê Thế V, sinh năm 1965 (có mặt).
1.2. Bà Chu Thị Y, sinh năm 1971 (có mặt).
Cùng địa chỉ: 1 X, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2.1. Ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ: Số H L, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ông Hoàng Vũ T – Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố V (vắng mặt, đề nghị xử vắng mặt).
2
UBND thành phố V
UBND thành phố V: Bà Hoàng Thị Thanh N – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và
Môi trường thành phố V (có mặt).
2.3. Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Địa chỉ: A P, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
: Ông Nguyễn Văn T1 – Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh B (vắng mặt, đề nghị xử vắng mặt).
UBND tỉnh B: Bà Hồ Thị Thanh
V1 - Chuyên viên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B (có mặt).
3. Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ: A B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
: Ông Nguyễn Thái S – Giám đốc (vắng mặt, đề
nghị xử vắng mặt).
Ông Ra Thành T2 - Trưởng Phòng
Bồi thường Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).
Người khởi kiện - ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y
Năm 2012, vợ chồng ông V – bà Y nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
từ ông Trần Văn T3, được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V cập
nhật sang tên vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 370110 ngày
16/01/2013.
Ngày 05/10/2022, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 11983/QĐ-
UBND thu hồi 466,80m² đất do ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y đang sử dụng tại
Phường A do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Khu đô thị Đ, Phường A,
Phường A, thành phố V;
Cùng ngày UBND thành phố V ban hành Quyết định số 11985/QĐ-UBND về
việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư cho Ông (Bà) Lê Thế V -
Chu Thị Y đang sử dụng tại Phường A do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án
Khu đô thị Đ, Phường A, Phường A, thành phố V;
Sau khi nhận được Quyết định thu hồi đất và phê duyệt kinh phí bồi thường,
vợ chồng ông V đã khiếu nại hành vi thu hồi đất không đúng quy định trên đến Chủ
tịch UBND thành phố V. Ngày 06/9/2017, Chủ tịch UBND thành phố V ban hành
Quyết định số 4290/QĐ-UBND bác khiếu nại lần đầu. Không đồng ý, vợ chồng
ông V tiếp tục khiếu nại lần hai. Ngày 18/9/2018, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành
Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 2602/QĐ-UBND tiếp tục bác khiếu nại của
vợ chồng ông V.
3
Ngày 30/10/2018, vợ chồng ông V khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu, yêu hủy Quyết định số 10928/QĐ-UBND “Về việc thu hồi đất và phê
duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ” của UBND thành phố V, hủy Quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu số 4290/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố V, hủy
Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 2602/QĐ-UBND ngày 18/9/2018 của Chủ
tịch UBND tỉnh B. Tại bản án hành chính sơ thẩm số 52/2019/HCST của Tòa án
nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông bà
nên ông bà kháng cáo. Bản án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày
11/6/2020 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận
toàn bộ yêu cầu kháng cáo của vợ chồng ông V: Hủy Quyết định thu hồi đất và
phê duyệt kinh phí bồi thường số 10928/QĐ-UBND ngày 09/12/2016; Hủy Quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu số 4290/QĐ-UBND ngày 06/9/2017 của Chủ tịch
UBND thành phố V; Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 2602/QĐ-
UBND ngày 18/9/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh B.
Căn cứ Bản án số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án Cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh thì Công văn số 3145/UBND-VP ngày 11/5/2016 về đề ra
chủ trương đầu tư dự án Khu đô thị, Phường A, thành phố V không phải là căn cứ
thu hồi đất.
Theo quy định của Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ
T5 thì thông báo thu hồi đất phải có tên, địa chỉ, diện tích, số tờ, số thửa và trích đo
thửa đất bị thu hồi theo mẫu số 7.
Thông báo thu hồi đất số 256/TB-UBND ngày 30/5/2016 của UBND thành
phố V không có các nội dung này nên không phải phải là Thông báo thu hồi đất của
ông V, bà Y.
Ngày 09/12/2016 UBND thành phố V ban hành Quyết định số 10928/QĐ-
UBND thu hồi đất và phê duyệt kinh phi bồi thường hộ ông V, bà Y.
Theo Thông báo thu hồi đất và quyết định thu hồi đất thể hiện UBND thành
phố V đã thu hồi đất của ông V, bà Y không thuộc phạm vi dự án vì đất của ông V,
bà Y ở Phường A (thửa 11, tờ bản đồ số 79, diện tích 466,8 m²) theo Công văn
3145 của UBND tỉnh thì chỉ thu hồi đất Phường A. Nguồn gốc đất ông V, bà Y
cũng không phải đất của Ngân hàng C mà do nhận chuyển nhượng từ ông Trần Văn
T3 vào năm 2012, được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố V cập
nhật sang tên vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16/01/2013 (Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CH03175 do UBND thành phố V cấp).
Như vậy, UBND thành phố V thu hồi đất và phê duyệt kinh phí bồi thường
không đúng đối tượng thu hồi, đất thu hồi của ông V, bà Y không nằm trong khu
vực dự án.
Theo khoản 1 Điều 73 Luật Đất đai 2013, quy định
t
nhưng UBND thành phố V không thực hiện mà vẫn cố tình thu hồi đất
của ông bà cho bằng được.
4
Từ các căn cứ trên cho thấy Thông báo thu hồi đất, Quyết định thu hồi đất,
cưỡng chế kiểm đếm, quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường đối với thửa 11, tờ
bản đồ số 79, diện tích 466,8 m
2
thuộc Phường A, thành phố V, Quyết định số
1431/QĐ-UBND ngày 01/6/2021 về giá đất сụ thể tính bồi thường đã xâm phạm
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông V. Do đó vợ chồng ông
V yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Hủy Quyết định số 11983/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành
phố V về việc: Thu hồi 466,80m² đất do ông (bà) Lê Thế V - Chu Thị Y đang sử
dụng tại Phường A do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Khu đô thị Đ,
Phường A, Phường A, thành phố V;
+ Hủy Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành
phố V về việc; Phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư cho Ông (Bà)
Lê Thế V - Chu Thị Y đang sử dụng tại Phường A do Nhà nước thu hồi đất để thực
hiện dự án Khu đô thị Đ, Phường A, Phường A, thành phố V;
+ Hủy Thông báo thu hồi đất số 1995/TB - UBND ngày 30/3/2021 của UBND
thành phố V;
+ Hủy Quyết định số 2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022 của Chủ tịch UBND
thành phố V về việc kiểm đếm bắt buộc;
+ Hủy Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày 06/06/2022 của Chủ tịch UBND
thành phố V về việc Cưỡng chế thực hiện Quyết định kiểm đếm bắt buộc.
+ Hủy Quyết định số 1431/QĐ-UBND ngày 01/6/2021 của UBND tỉnh B về
việc phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường theo Bản án hành chính phúc thẩm số
186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh và các quyết định giải quyết khiếu nại có thu hồi đất (bổ sung) năm 2021
thuộc dự án Khu đô thị Đ Phường A, Phường A, thành phố V.
+ Huỷ Quyết định số 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành
phố V về việc cưỡng chế thu hồi đất.
+ Yêu cầu UBND thành phố V cung cấp dự án Khu đô thị Đ Phường A, thành
phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Yêu cầu UBND thành phố V cung cấp quy trình thẩm định giá đất bồi
thường.
- Ủy ban nhân dân thành phố VUBND thành phố V
và nHoàng Thị Thanh
N trình bày:
- Về nội dung yêu cầu hủy Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND ngày
30/3/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố V:
Về pháp lý thực hiện dự án Khu đô thị đường 3 Tháng 2, Phường 10, Phường
11, thành phố Vũng Tàu:
+ Dự án Khu đô thị đường 3 Tháng 2, thành phố Vũng Tàu thuộc diện tích
1.206.991,0m
2
đất tại C, Phường A, Phường A, thành phố V do Ngân hàng C được
Tòa án nhân dân cấp cao giao quản lý, khai thác, phát mãi thu hồi nợ trong vụ án
5
E1 đã được UBND tỉnh B có Quyết định thu hồi số 3567/QĐ-UBND ngày
06/10/2005 để quản lý sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch, phục vụ lợi ích công
cộng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Do vướng mắc về công tác nhận bàn giao đất từ Ngân hàng C, cho nên đến
ngày 23/12/2015, UBND tỉnh B có Văn bản số 9779/UBND-VP về chủ trương kế
hoạch bán đấu giá khu đất, tại mục 4. Văn bản có nêu:
Khu đô thị Đ - thành phố V
+ Ngày 14/12/2020, UBND tỉnh B có Văn bản số 14032/UBND-VP của
UBND tỉnh về chủ trương thu hồi đất để đầu tư thực hiện dự án Khu đô thị Đ T
thuộc Phường A, Phường A, thành phố V;
+ Ngày 13/12/2020, Hội đồng nhân dân tỉnh ban bành Nghị Quyết 109/NQ-
HĐND về thông qua Danh mục dự án án có thu hồi đất để thực hiện trong năm
2021 trên địa bàn tỉnh trong đó có dự án Khu đô thị Đ (Stt16);
+ Ngày 31/12/2020, UBND tỉnh bàn hành Quyết định số 4040/QĐ-UBND về
phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2021 của thành phố V trong đó có dự án Khu
đô thị Đ Tháng 2.
Căn cứ điểm đ khoản 3 Điều 62 Luật đất đai 2013 quy định các trường hợp
Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
trong các trường hợp sau đây:
òng h
- Căn cứ Điều 63 Luật đất đai 2013 quy định về việc thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng phải
dựa trên các căn cứ sau đây:
Căn cứ quy định nêu trên thì dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường
A, thành phố V đã được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương thực hiện Dự án tại
Văn bản số 14032/UBND-VP ngày 14/12/2020; được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
thông qua danh mục Nhà nước thu hồi đất tại Nghị Quyết 109/NQ-HĐND ngày
13/12/2020; có tên trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm thành phố V tại Quyết
định số 4040/QĐ-UBND ngày 31/12/2020; thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất
để phát triển kinh tế xã hội, đủ điều kiện để UBND thành phố ban hành Kế hoạch
6
thu hồi, điều tra khảo sát, đo đạc, kiểm đếm và Thông báo thu hồi đất theo quy định
Luật đất đai 2013.
Trong quá trình thực hiện, UBND thành phố (UBND Phường 11 chủ trì) mời
ông Lê Thế V để thông báo nội dung triển khai dự án Khu đô thị Đ Tháng 2, trước
khi UBND thành phố ban hành Kế hoạch số 1994/KH-UBND ngày 30/3/2021 về
thu hồi, điều tra khảo sát, đo đạc, kiểm đếm cho 01 hộ gia đình, cá nhân để thực
hiện dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường A, thành phố V theo Bản án
án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Biên bản làm việc ngày 12/3/2021, ông Lê Thế V đề nghị Trung tâm Phát
triển quỹ đất tỉnh (chủ đầu tư) phải thỏa thuận nhận chuyển nhượng toàn bộ diện
tích ông V; ông không đồng ý việc nhà nước thu hồi đất của ông.
Tại đơn khởi kiện, ông Lê Thế V yêu cầu UBND thành phố cung cấp quyết
định phê duyệt quy hoạch 1/500 dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường A,
thành phố V:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật đất đai 2013 nêu trên thì dự án Khu
đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường A, thành phố V đã được UBND tỉnh cho chủ
trương thu hồi đất thực hiện Dự án; được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận
đưa vào Danh mục Nhà nước thu hồi đất như đã nêu ở trên và phù hợp quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của thành phố V được UBND
tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1093/QĐ-UBND ngày 01/4/2022 của UBND tỉnh;
Dự án Khu đô thị đường C T thuộc Phường A, Phường A, thành phố V đã
được UBND tỉnh phê duyệt, đưa vào quy hoạch thực hiện tại Quyết định số
1613/QĐ-UBND ngày 01/6/2022 của UBND tỉnh phê duyệt đồ án Điều chỉnh quy
hoạch phân khu tỷ lệ 1/2.000 Khu D - C, thành phố V.
Như vậy, việc UBND thành phố ban hành Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-
UBND ngày 30/3/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố V đối với ông (bà) Lê Thế
V – Chu Thị Y để thực hiện dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường A,
thành phố V là có căn cứ pháp luật như đã nêu ở trên; việc ông Lê Thế V yêu cầu
Nhà nước phải thỏa thuận chuyển nhượng là không có căn cứ quy định pháp luật để
thực hiện.
- -
Sau khi UBND thành phố V ban hành Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-
UBND ngày 30/3/2021, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh đã có 02 thư mời gửi ông
Lê Thế V để triển khai việc thu hồi đất dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A,
Phường A, thành phố V, tuy nhiên ông Lê Thế V không nhận thư mời, không tham
dự thể hiện tại Biên bản làm việc ngày 22/4/2021 và Biên bản làm việc ngày
05/5/2021 triển khai Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND ngày 30/3/2021.
Từ ngày 13/10/2021 đến ngày 03/11/2021, Trung tâm Phát triển quỹ đất đã có
03 thư mời ông Lê Thế V về thực hiện kiểm đếm thống kê thực địa trên đất theo
Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND, tuy nhiên ông V không tham dự thể
hiện tại các Biên bản làm việc ngày 18/10/2021; Biên bản làm việc ngày
7
25/10/2021; Biên bản làm việc ngày 01/11/2021; Biên bản làm việc ngày
04/11/2021 kiểm đếm thực địa theo Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND;
Để đảm bảo tiến độ thực hiện Dự án Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh có 03
văn bản (Văn bản 668/PTTPTQĐ-PBT ngày 09/11/2021; Văn bản 46/PTTPTQĐ-
PBT ngày 11/11/2021; Văn bản 79/PTTPTQĐ-PBT ngày 10/02/2022) đề nghị U
vận động ông Lê Thế V kiểm đếm thống kê thực địa trên đất theo Thông báo thu
hồi đất số 1995/TB-UBND;
Ngày 17/2/2022, U mời ông Lê Thế V phối hợp kiểm đếm thống kê thực địa
trên đất theo Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND (thể hiện tại Biên bản làm
việc tống đạt thư mời Thư mời 08/GM-UBND), ông V đã không tham dự và U đã
có Báo cáo số 390/BC-UBND ngày 23/3/2022 về vận động ông Lê Thế V phối hợp
kiểm đếm thống kê thực địa trên đất, đề nghị áp dụng biện pháp kiểm đếm bắt buộc
và Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh có Văn bản số 270/TTPTQĐ-PBT ngày
24/3/2023 đề nghị ban bành Quyết định kiểm đếm bắt buộc.
Căn cứ điểm c khoản 4 Điều 10 Quyết định 34/2015/QĐ-UBND ngày
25/8/2015 của UBND tỉnh B ban hành quy định trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, quy định
về:
“
Ủy ban M
Căn cứ quy định nêu trên, các đơn vị đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy
định pháp luật, tuy nhiên ông Lê Thế V không hợp tác, phối hợp do đó UBND
thành phố đã ban hành Quyết định số 2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022 của Chủ
tịch UBND thành phố về kiểm đếm bắt buộc ông Lê Thế V do không phối hợp
kiểm đếm thống kê thực địa trên đất theo Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-
UBND là đúng quy định pháp luật.
- -UBND ngày 06/
Lê Thế
V:
Sau khi UBND ban hành Quyết định số 2574/QĐ-UBND về kiểm đếm bắt
buộc, U đã thực hiện niêm yết công khai và Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh đã
8
gửi thư mời ông Lê Thế V để thực hiện phối hợp thực hiện Quyết định số
2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022 của UBND thành phố Biên bản làm việc ngày
26/4/2022 về nhận thư mời 25/GM-UBND ngày 25/4/2022, có ông Lê Thế V nhận.
Vào các ngày 29/4/2022 và ngày 13/5/2022, U tổ chức vận động ông V phối
hợp thực hiện Quyết định số 2574/QĐ-UBND, tuy nhiên ông V không phối hợp (có
tham dự của Ủy ban mặt trận tổ quốc Phường A). Do đó, U đã đề nghị UBND
thành phố V áp dụng thực hiện quyết cưỡng chế thực hiện kiểm đếm bắt buộc ông
Lê Thế V tại Báo cáo số 711/BC-UBND ngày 23/5/2022 và đề xuất của Trung tâm
phát triển quỹ đất tỉnh tại văn bản 363/TTPTQĐ-PBT ngày 20/4/2022.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 70 Luật đất đai 2013, về điều kiện để thực hiện
cưỡng cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc, quy định:
Ủy ban M
Căn cứ quy định nêu trên thì Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định
số 8551/QĐ-UBND ngày 06/6/2022 về cưỡng chế thực hiện kiểm đếm bắt buộc
ông Lê Thế V là đúng quy định.
- -UBND ngày 05/10/2022,
-
2
Lê Thế V Chu Thị Y Khu đô thị Đ,
Phường A, Phường A, thành phố V:
Trong quá trình UBND thành phố thực hiện việc thu hồi, bồi thường đối với
diện tích 466,80m
2
đất và bồi thường cho ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y để thực
hiện Dự án Khu đô thị Đ, Phường A, Phường A, thành phố V, ông Lê Thế V đã
không phối hợp, yêu cầu Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh (Chủ đầu tư) thỏa thuận
chuyển nhượng diện tích 466,80m
2
đất, không đồng ý Nhà nước thu hồi đất, bồi
thường theo quy định.
Ngày 22/6/2022, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 9385/QĐ-
UBND về thành lập tổ cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc.
Ngày 23/6/2022, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh đã có Thông báo số
503/TB-TTPTQĐ về thực hiện quyết định Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày
06/6/2022 của Chủ tịch UBND thành phố và đồng thời đã gửi thư mời đến ông Lê
Thế V về kiểm đếm bắt buộc; tuy nhiên ông V không phối hợp.
Ngày 30/6/2022, Tổ kiểm đếm bắt buộc theo Quyết định số 9385/QĐ-UBND
đã thực hiện kiểm đếm bắt buộc về nhà ở, tài sản gắn liền với đất, theo đó tại thời
điểm kiểm đếm, trên đất không có tài sản, hoa màu, cây trái; đất trống.
Ngày 08/8/2022, U có Biên bản xét duyệt phục vụ công tác bồi thường đối với
466,80m
2
đất cần thu hồi, theo đó xác định diện tích 466,80m
2
đất đã được UBND
thành phố cấp giấy CNQSD đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BH
370110, với diện tích 466,80m
2
đất trồng cây hàng năm khác thuộc thửa 11 tờ bản
đồ số 79 cho ông Trần Văn T3. Sau đó ông T3 chuyển nhượng cho ông (bà) Lê Thế
V – Chu Thị Y được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Vũng Tàu xác nhận
ngày 16/01/2013; do đó đủ điều kiện bồi thường diện tích 466,80m
2
đất.
9
Ngày 17/8/2022, Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Vũng Tàu
có Văn bản 3715/PC-CNVPĐK về cung cấp thông tin địa chính thửa đất thu hồi
ông Lê thế V2, theo đó xác định diện tích 466,80m
2
đất thu hồi thuộc vị trí 5 đường
3 Tháng 2 (đoạn từ đường N đến vòng xoay đường C và đường B); thông tin địa
chính trùng ý kiến với U;
Ngày 22/8/2022, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã họp xét diện
tích 466,80m
2
đất cần thu hồi, theo đó xác định 466,80m
2
đất đủ điều kiện bồi
thường 466,80m
2
đất nông nghiệp theo Điều 75, Điều 77 Luật đất đai; thuộc vị trí 5
đường 3 Tháng 2 (đoạn từ đường N đến vòng xoay đường C và đường B); giá đất
tính bồi thường được áp dụng theo Quyết định số 1341/QĐ-UBND ngày 01/6/2021
của UBND tỉnh B về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường theo Bản án
án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 23/6/2022, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh có Văn bản 740/TTPTQĐ-
PBT về lấy ý kiến về phương án bồi thường ông Lê thế V2 và đã gửi phương án
đến ông Lê Thế V biết theo phiếu báo phát ngày 9/9/2022 (có ký nhận của ông Lê
Thế V);
Ngày 24/9/2022, U có Văn bản 1477/UBND-ĐC về tổng hợp ý kiến về
phương án niêm yết kèm theo Biên bản niêm yết công khai lập ngày 25/8/2022 có
xác nhận của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc V.
Ngày 28/9/2022, Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có Tờ trình số
103/TTr-HĐBT về việc đề nghị thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư cho ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y là người đang sử dụng đất để
thực hiện dự án Khu đô thị Đ T, Phường A, Phường A, thành phố V theo Bản án
hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh;
Ngày 30/9/2022, phòng T, thành phố V có tờ trình thẩm định phương án số
4650/TTr-TNMT đề nghị UBND thành phố ban hành Quyết định thu hồi đất,
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho 01 hộ gia đình,
cá nhân do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Khu đô thị Đ, Phường A,
Phường A, thành phố V.
Căn cứ khoản 2 Điều 69 Luật đất đai về lập, thẩm định phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:
10
n
ã, Ủy ban M
ã n
ình c
nh
Theo quy định nêu trên thì UBND thành phố thực hiện đầy đủ các bước theo
trình tự thủ tục quy định pháp luật, đủ điều kiện để UBND thành phố ban hành
Quyết định số 11983/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố V về việc
thu hồi 466,80m
2
đất và Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của
UBND thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do
ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y đang sử dụng đất tại Phường A do Nhà nước thu
hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị đường C, Phường A, Phường A, thành phố
V, với số tiền bồi thường: 1.222.549.200 đồng, trên cơ sở giá đất cụ thể được
UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1341/QĐ-UBND ngày 01/6/2021, có giá
đất nông nghiệp (vị trí 5), có giá 2.619.000 đồng/m
2
.
Tại thời điểm UBND thành phố ban hành Quyết định số 11983/QĐ-UBND thì
Dự án Khu đô thị Đ có tên danh mục Nhà nước thu hồi đất Hội đồng nhân dân tỉnh
thông qua tại Nghị quyết số 101/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 và có tên tại kế
hoạch sử dụng đất năm 2022 được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
1346/QĐ-UBND ngày 28/4/2022.
Do đó, việc ông Lê Thế V yêu cầu hủy Quyết định số 11983/QĐ-UBND,
Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố V và yêu
cầu phải thỏa thuận chuyển nhượng 466,80m
2
đất là không có căn cứ pháp luật như
đã nêu ở trên.
- -UBND ngày 14/12/2022
Trên cơ sở Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của UBND
thành phố V, Trung tâm Phát triển quỹ đất Tỉnh đã phối hợp với U niêm yết Quyết
định thu hồi và Quyết định phê duyệt phương án theo quy định (đính kèm hồ sơ);
đồng thời Trung tâm Phát triển quỹ đất Tỉnh đã gửi các Quyết định thu hồi và
Quyết định phê duyệt phương án đến hộ ông Lê Thế V theo quy định (kèm theo
phiếu chuyển qua đường bưu điện);
Trung tâm P1 có 03 lần mời hộ ông Lê Thế V nhận tiền theo thư mời số
41/TM-TTPTQĐ ngày 20/10/2022; số 42/TM-TTPTQĐ ngày 27/10/2022 và số
43/TM-TTPTQĐ ngày 31/10/2022 nhưng hộ ông Lê Thế V đều vắng mặt (đính
kèm hồ sơ tống đạt thư mời);
11
Trung tâm Phát triển quỹ đất Tỉnh có Thông báo số 05/TB-TTPTQĐ ngày
31/10/2022 và Thông báo số 07/TB-TTPTQĐ ngày 04/11/2022 về việc bàn giao
mặt bằng nhưng hộ ông Lê Thế V đều vắng mặt (đính kèm hồ sơ tống đạt thông
báo).
Ngày 17/11/2022 và ngày 25/11/2022, U phối hợp cùng các đơn vị liên quan
tổ chức vận động hộ ông Lê Thế V bàn giao mặt bằng theo Báo cáo số 1944/BC-
UBND ngày 30/11/2022 nhưng hộ ông Lê Thế V vắng mặt không lý do (đính kèm
biên bản làm việc và việc tống đạt thư mời vận động của U).
Căn cứ khoản 1 Điều 71 Luật đất đai 2013 về cưỡng chế thực hiện quyết định
thu hồi đất, quy định:
:
ban nhỦy ban M
ng
hành;
Trong suốt quá trình thực hiện công tác thu hồi đất, bàn giao mặt bằng hộ ông
Lê Thế V không tham gia, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan và đã thực
hiện đầy đủ theo trình tự quy định pháp luật, do đó đủ điều kiện để Chủ tịch UBND
thành phố ban hành Quyết định 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 về cưỡng chế
thu hồi đất để đảm bảo tiến độ thực hiện Dự án.
Để đảm bảo tiến độ thực hiện Dự án, UBND thành phố đã thành lập Ban thực
hiện cưỡng chế thu hồi đất tại Quyết định số 13805/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 và
xây dựng, thực hiện Phương án cưỡng chế số 09/PACC-BTHCCTHĐ ngày
17/02/2023 để thực hiện Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số Quyết định
13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022;
12
Ngày 03/3/2023, UBND thành phố V đã thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối
với ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Yến theo Thông báo số 207/TB-UBND ngày
17/02/2023.
Đã hoàn thành công tác cưỡng chế và bàn giao mặt bằng cho Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh theo quy định.
Do đó, việc ông Lê Thế V yêu cầu hủy Quyết định 13772/QĐ-UBND ngày
14/12/2022 là không có căn cứ pháp luật như đã nêu ở trên.
- -
UBND tỉnh B
-PT ngày 11/6/202
Khu đô thị Đ T, Phường A, Phường A,
thành phố V:
Ngay sau khi nhận được Bản án án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT
ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, UBND
thành phố V đã báo cáo UBND tỉnh và đã thực hiện lại quy trình thu hồi, bồi
thường như đã nêu ở trên (từ mục 1 đến mục 5). Để có cơ sở xét duyệt, niêm yết
phương án bồi thường, tính bồi thường diện tích 466,80m
2
đất cần thu hồi, UBND
thành phố đã thuê đơn vị tư vấn xác định giá đất cụ thể (Quyết định số 1934/QĐ-
UBND ngày 01/4/2021 về phê duyệt dự toán và chỉ định gói thầu tư vấn xác định
giá đất cụ thể để tính bồi thường ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y;
Việc khảo sát, xác định, đề xuất giá đất cụ thể của Dự án do Đơn vị tư vấn
khảo sát giá đất cụ thể chịu trách nhiệm trước pháp luật theo khoản 3, 4 Điều 115
và khoản 2 Điều 116 Luật đất đai năm 2013, trên cơ sở các hợp đồng chuyển
nhượng hợp pháp, số liệu nộp thuế và các quy định khác của pháp luật.
Ngày 05/4/2021, Công ty thẩm định giá Đất Việt có chứng thư số
1301/2021/VNLAND-HCM về xác định giá đất nông nghiệp để tính bồi thường
ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y) và các hộ dân khác thuộc dự án Khu đô thị Đ T,
Phường A, Phường A, thành phố V.
Ngày 15/4/2021, UBND thành phố có Tờ trình số 2477/TTr-UBND về
phương án giá đất cụ thể tính bồi thường ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y) theo Bản
án án HCPT số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
thành phố Hồ Chí Minh và các quyết định giải quyết khiếu nại thuộc dự án Khu đô
thị Đ T, Phường A, Phường A, thành phố V;
Ngày 05/5/2021, Sở T có Tờ trình số 2448/TTr-STNMT về thẩm định phương
án giá đất cụ thể tính bồi thường ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y) theo Bản án án
HCPT số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh và các quyết định giải quyết khiếu nại thuộc dự án Khu đô thị Đ
T, Phường A, Phường A, thành phố V;
Ngày 17/05/2021, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể tỉnh có Văn bản số
60/STC-HĐTĐGĐCT về thẩm định phương án giá đất cụ thể tính bồi thường theo
Bản án án HCPT số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
13
tại thành phố Hồ Chí Minh và các quyết định giải quyết khiếu nại thuộc dự án Khu
đô thị Đ T, Phường A, Phường A, thành phố V;
Ngày 20/5/2021, Sở T có Tờ trình số 2937/TTr-STNMT trình UBND tỉnh về
phê duyệt phương án giá đất cụ thể tính bồi thường theo theo Bản án án HCPT số
186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh và các quyết định giải quyết khiếu nại có thu hồi đất (bổ sung) năm 2021
thuộc dự án Khu đô thị Đ T, Phường A, Phường A, thành phố V;
Ngày 01/06/2021, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1341/QĐ-UBND về
việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường theo Bản án án hành chính phúc
thẩm số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành
phố Hồ Chí Minh và các Quyết định giải quyết khiếu nại có thu hồi đất (bổ sung)
năm 2021 thuộc dự án Khu đô thị Đ T, Phường A, Phường A, thành phố V.
Như vậy, UBND thành phố V đã thực hiện theo đúng trình tự được quy định
tại Điều 8 Quyết định 22/2017/QĐ-UBND ngày 21/8/2017 của UBND tỉnh B về
việc Ban hành Quy định về Quy trình luân chuyển hồ sơ khi xác định giá đất cụ thể
để xác định nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và để tính bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và đã áp dụng giá đất được
UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1341/QĐ-UBND ngày 01/6/2021 để tính
bồi thường diện tích 466,80m
2
đất cho ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Yến theo
Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố V là đúng
trình tự, quy định pháp luật.
Từ những căn cứ đã nêu ở trên, UBND thành phố V đã ban hành lại quy trình
thu hồi, bồi thường đối với trường hợp ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y đúng trình
tự quy định pháp luật theo Bản án án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT
ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Do đó
yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y là không có cơ sở nên đề nghị Tòa án bác toàn
bộ khởi kiện của ông V, bà Y.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND
thành phố V trình bày : Do thời gian phải giãn cách xã hội, đã dẫn đến việc phê
duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo giá đất của UBND tỉnh phê
duyệt không kịp thời, đã vi phạm nguyên tắc bồi thường về đất tại Điều 74 Luật
Đất đai; do đó, giá đất có sự thay đổi. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
ông V, bà Y thì UBND thành phố V đồng ý khảo sát lại giá đất để làm căn cứ tính
tiền bồi thường về đất cho vợ chồng ông V. Tuy nhiên, việc thu hồi đất đã được
giao cho Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quản lý, nên ông V,
bà Y vẫn phải chấp hành.
- Ủy ban nhân dân tỉnh B trình bày:
Quyết định số 1431/QĐ-UBND ngày 01/6/2022 của UBND tỉnh B về việc phê
duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường theo Bản án hành chính phúc thẩm số
186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh và các Quyết định giải quyết khiếu nại có thu hồi đất (bổ sung) năm 2021
của các hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án Khu đô thị Đ, Phường A, Phường A,
thành phố V được UBND tỉnh ban hành dựa trên cơ sở
sau:
14
Thực hiện Bản án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, UBND thành phố V đã
lập phương án giá đất và có Tờ trình số 2477/TTr-UBND ngày 15/4/2021 đề xuất
phương án giá đất cụ thể để tính bồi thường cho ông (bà) Lê Thế V - Chu Thị Yến
theo Bản án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày 11/6/2020 của Tòa án
nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh và các Quyết định giải quyết khiếu
nại có thu hồi đất (bổ sung) năm 2021 của các hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án
Khu đô thị Đ, Phường A, Phường A, thành phố V. Trên cơ sở đề xuất của UBND
thành phố V, Sở Tài nguyên và Môi trường thẩm định, tổng hợp hồ sơ và có Tờ
trình số 2448/TTr-STNMT ngày 05/5/2021 trình Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể
tỉnh thẩm định phương án giá đất.
Ngày 17/5/2021, Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể có văn bản số 60/STC-
HĐTĐGĐCT thống nhất phương án giá đất do Sở T đề xuất. Căn cứ đề nghị của
UBND thành phố V và ý kiến của Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể, Sở T có Tờ
trình số 2937/TTr-STNMT ngày 20/5/2021 trình UBND tỉnh phê duyệt phương án
giá đất cụ thể. Ngày 01/6/2022, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1431 phê
duyệt giá đất cụ thể.
Từ các thông tin trên, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 1431 theo đúng
trình tự, thủ tục được quy định tại Điều 8 Quyết định số 22/2017/QĐ-UBND của
UBND tỉnh về Ban hành quy định về quy trình luân chuyển hồ sơ khi xác định giá
đất cụ thể để xác định nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất và để tính bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Do đó,
người khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 1431 là không có cơ sở, đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện
đối việc yêu cầu hủy Quyết định số 1431.
Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh P1 đã được UBND thành phố V bàn giao đất
thu hồi của ông V để quản lý và sau này thực hiện các thủ tục đấu giá theo quy
định.
-
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y:
- Hủy quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố V về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất cho ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y;
- Buộc UBND thành phố V tiến hành khảo sát lại giá đất để ban hành quyết
định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi diện tích 466,8
m
2
đất, thuộc thửa 11 tờ bản đồ số 79, tọa lạc tại Phường A, thành phố V của ông
V, bà Y theo đúng quy định của pháp luật.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y về việc hủy Thông
báo thu hồi đất số 1995/TB - UBND ngày 30/3/2021 và Quyết định số 11983/QĐ-
UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố V.
15
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y về việc hủy Quyết
định số 2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022, Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày
06/06/2022 và Quyết định số 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của Chủ tịch
UBND thành phố V.
4. Đình chỉ giải quyết giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê
Thế V, bà Chu Thị Y đối với yêu cầu hủy quyết định số 1431/QĐ-UBND ngày
01/6/2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/9/2023, ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y kháng cáo yêu cầu Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án sơ thẩm chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của ông bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện – ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y
không rút yêu cầu khởi kiện và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y trình bày yêu cầu kháng cáo như sau:
Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông bà, lý do:
Ngày 11/6/2020, Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã xét
xử (theo Bản án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT) chấp nhận toàn bộ yêu
cầu kháng cáo của ông bà nhưng Ủy ban nhân dân tỉnh B chưa thực hiện theo bản
án trên mà còn ban hành Văn bản số 14035 ngày 14/02/2020 có nội dung thêm
Điều 11 làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông bà, cụ thể: Đất của
ông bà không nằm trong dự án của Ngân hàng C tuy nhiên Ủy ban nhân dân tỉnh B
ban hành Văn bản số 14035 bổ sung thêm Điều 11 đưa đất ông bà vào dự án; văn
bản 14035 không phải là căn cứ thu hồi đất; đất của ông bà nhận chuyển nhượng từ
ông T3 chứ không phải nhận chuyển nhượng từ Ngân hàng C; đất của ông bà bị thu
hồi để thực hiện dự án thương mại nhưng không đấu thầu, không lập dự án, bản vẽ
qui hoạch tổng khu đất để thu hồi; trình tự, thủ tục thu hồi đất và ban hành các
quyết định hành chính tiếp theo không theo đúng qui định của pháp luật; đất của
ông bà thuộc vị trí 1 đường loại 3 nhưng Ủy ban xác định vị trí 5 là không đúng;…
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND thành phố V và Chủ tịch
UBND thành phố V trình bày: Không đồng ý với ý kiến và yêu cầu kháng cáo của
người khởi kiện. Các văn bản cũ do câu từ chưa phù hợp với chủ trương đầu tư của
UBND tỉnh nên bản án sơ thẩm lần trước mới hủy các văn bản cũ để về thực hiện
lại chứ bản chất thì không thay đổi. UBND thành phố V đã thực hiện lại theo đúng
quy trình.
Dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường A, thành phố V đã được
UBND tỉnh chấp thuận chủ trương thực hiện Dự án tại Văn bản số 14032/UBND-
VP ngày 14/12/2020; được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua danh mục Nhà
nước thu hồi đất tại Nghị Quyết 109/NQ-HĐND ngày 13/12/2020; có tên trong kế
hoạch sử dụng đất hàng năm thành phố V tại Quyết định số 4040/QĐ-UBND ngày
31/12/2020; thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội.
16
Theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 62 và Điều 63 Luật đất đai 2013 thì
việc UBND thành phố V ban hành Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND ngày
30/3/2021 đối với ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Y để thực hiện dự án Khu đô thị Đ
T thuộc Phường A, Phường A, thành phố V là có căn cứ pháp luật.
Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Ủy ban nhân dân
Phường A đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật, tuy nhiên vợ
chồng ông V không hợp tác, phối hợp. Do đó Chủ tịch UBND thành phố đã ban
hành Quyết định số 2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022 về kiểm đếm bắt buộc là có
căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Do thời gian phải giãn cách xã hội, đã dẫn đến việc phê duyệt kinh phí bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư theo giá đất của UBND tỉnh phê duyệt không kịp thời,
đã vi phạm nguyên tắc bồi thường về đất tại Điều 74 Luật Đất đai; do đó, giá đất có
sự thay đổi. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông V, bà Y thì UBND
thành phố V đồng ý khảo sát lại giá đất để làm căn cứ tính tiền bồi thường về đất
cho vợ chồng ông V.
Ông V khởi kiện cho rằng đất thuộc vị trí A, đường loại 3. Theo hồ sơ cấp
giấy của ông Trần Văn T3, khi Nhà nước thu hồi đất năm 1998 để thực hiện giao
đất cho E - Minh Phụng, UBND tỉnh đã thu hồi đất của ông T3 và đã cấp giấy
chứng nhận cho E - Minh Phụng rồi. Khi cấp giấy cho E - M có những khoảng hở
đất. Tức là khi phân lô cấp giấy cho Minh P sẽ còn lại những phần đất thừa thuộc
quyền sử dụng đất của người dân theo hồ sơ kê khai đăng ký. Trường hợp của ông
T3, tại thời điểm năm 2011 ông T3 lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì trong hồ sơ ông T3 xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã viết
rõ là năm 1983 có đăng ký 6.425m
2
, năm 1998 Nhà nước đã thu hồi 3.125,8m
2
giao
cho E - M,...diện tích đất còn lại của ông T3 đã được cấp giấy chứng nhận, sau này
đã tách thành nhiều thửa, trong đó có một phần thửa đất mà ông T3 đã chuyển
nhượng cho vợ chồng ông V vào năm 2013. Ông T3 được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất xong ông T3 không thắc mắc khiếu nại gì về việc cấp giấy
chứng nhận QSDĐ. Năm 2013, ông V nhận chuyển nhượng và được Nhà nước xác
nhận cấp giấy chứng nhận. Ông V là người thừa hưởng quyền sử dụng đất hợp
pháp của ông T3. Trên Sơ đồ vị trí ngày 19/3/2021, thể hiện phần đất của ông V
nhận chuyển nhượng đất của ông T3 không tiếp giáp với mặt tiền đường. Trong hồ
sơ xác định đất của ông V ở vị trí 5, tuy nhiên trong quá trình đánh mày ghi nhầm
là loại 1. Bản án sơ thẩm đã nêu rõ vẫn đề này. Do đó, việc ông V trình bày đất của
ông thuộc vị trí 1, đường loại 3 là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Nếu ông
V cung cấp được hồ sơ chuyển nhượng của ông T3 mà xác định đất ở vị trí 1 thì
UBND thành phố V vẫn chấp nhận.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Trung tâm Phát triển quỹ đất
tỉnh P1 trình bày: Trong hồ sơ cũng đã thể hiện rõ, ngoài việc ban hành các văn bản
thu hồi đất thì hộ ông V không nhận trực tiếp thì cũng đã giao gửi bằng đường bưu
điện, chứng minh được văn bản đã được giao cho hộ ông V. Đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
17
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND tỉnh B trình bày: Thống
nhất với ý kiến trình bày của UBND thành phố và Trung tâm Phát triển quỹ đất. Đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
- Người khởi kiện - ông Lê Thế V tranh luận: Dự án đường 3 Tháng 2 UBND
thành phố V có bản vẽ quy hoạch không? Đây là dự án thương mại mà lại giao cho
Trung tâm Phát triển quỹ đất là không đúng. Đề nghị UBND thành phố V cung cấp
bản vẽ tổng thể thu hồi đất dự án đường 3 Tháng 2. Văn bản của Trung tâm Phát
triển quỹ tỉnh, văn bản 890 ngày 10/02/2022 báo cáo về lập quy hoạch chi tiết
1/500 là chưa có. Chưa có bản vẽ tổng thể để thu hồi đất thì thu hồi đất của tôi theo
dự án gì thì phải công khai cho tôi biết.
- Người khởi kiện - bà Chu Thị Y bảo lưu quan điểm đã trình bày.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND thành phố V và Chủ tịch
UBND thành phố V tranh luận: Hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ
quá trình theo trình tự quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện
kháng cáo nhưng không cung cấp giấy tờ chứng minh việc cho rằng UBND thành
phố thực hiện sai quy định pháp luật ở chỗ nào. Ông V cho rằng chuyển nhượng từ
ông T3, thể hiện tại bản án rồi. Bản vẽ toàn bộ khu đất dự án đã cung cấp trong hồ
sơ vụ án và được công khai tại phiên tòa sơ thẩm. Về Văn bản của Trung tâm Phát
triển quỹ tỉnh số 890 ngày 10/02/2022 mà ông V trình bày, là dự án thực hiện sau
khi thu hồi đất nên chưa thể có bản vẽ dự án được. Đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét bác đơn khởi kiện của ông V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết vụ án:
+ Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục theo quy định
của Luật Tố tụng hành chính. Các đương sự đã được thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
+ Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng pháp luật, kháng cáo của
ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ
yêu cầu kháng cáo của ông V và bà Y, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số
142/2023/HC-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Tại phiên toà phúc thẩm, vắng mặt
toàn bộ người đại diện hợp pháp của những người bị kiện và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan (đều có đơn đề nghị xử vắng mặt) nhưng toàn bộ những người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đều có mặt. Căn cứ khoản khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015,Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan.
18
[2] Về đối tượng khởi kiện, quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết và thời
hiệu khởi kiện: Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số
11983/QĐ-UBND ngày 05/10/2022; Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày
05/10/2022 của UBND thành phố V; Thông báo thu hồi đất số 1995/TB - UBND
ngày 30/3/2021 của UBND thành phố V; Quyết định số 2574/QĐ-UBND ngày
05/4/2022 của Chủ tịch UBND thành phố V về việc kiểm đếm bắt buộc; Quyết
định số 8551/QĐ-UBND ngày 06/06/2022 của Chủ tịch UBND thành phố V;
Quyết định số 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của Chủ tịch UBND thành phố
V; Quyết định số 1431/QĐ-UBND ngày 01/6/2021 của UBND tỉnh B.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện
và thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều
32 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[3] Tại Bản án sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của người
khởi kiện về việc: Hủy quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Ủy
ban nhân dân thành phố V về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất cho ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y; Buộc UBND thành phố
V tiến hành khảo sát lại giá đất để ban hành quyết định phê duyệt kinh phí bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi diện tích 466,8m
2
đất, thuộc thửa 11 tờ bản
đồ số 79, tọa lạc tại Phường A, thành phố V của ông V, bà Y theo đúng quy định
của pháp luật. Nội dung nêu trên của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về nội dung: Xét kháng cáo của người khởi kiện yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm, hủy các quyết định hành chính còn lại theo yêu cầu khởi kiện của ông V bà
Y, Hội đồng xét xử xét thấy:
[4.1] Về về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành của các Quyết định hành
chính bị khiếu kiện:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 66; điểm a khoản 3 Điều 69 Luật đất đai năm
2013. Việc Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Thông báo thu hồi đất số
1995/TB-UBND ngày 30/3/2021, Quyết định số 11983/QĐ-UBND ngày
05/10/2022, Quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 là đúng thẩm
quyền.
Căn cứ vào Điều 10, Điều 11 Thông tư 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014
của Bộ T5 quy định: Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt
buộc, quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế
thu hồi đất thì Chủ tịch của UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2574/QĐ-
UBND ngày 05/4/2022, Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày 06/06/2022 của Chủ
tịch UBND thành phố V và Quyết định số 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 là
đúng thẩm quyền.
[4.2] Xét tính hợp pháp về nội dung của Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-
UBND ngày 30/3/2021 và Quyết định thu hồi đất số 11983/QĐ-UBND ngày
05/10/2022 về việc thu hồi 466,80m
2
đất để thực hiện Dự án Khu đô thị đường C,
Phường A, Phường A, thành phố V, thấy rằng:
19
[4.2.1] Dự án Khu đô thị Đ T, thành phố V thuộc diện tích 1.206.991,0m
2
đất
tại C, Phường A, Phường A, thành phố V do Ngân hàng C được Tòa án nhân dân
cấp cao giao quản lý, khai thác, phát mãi thu hồi nợ trong vụ án E1 đã được UBND
tỉnh B có Quyết định thu hồi số 3567/QĐ-UBND ngày 06/10/2005 để quản lý sử
dụng theo quy hoạch, kế hoạch, phục vụ lợi ích công cộng, phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
[4.2.2] Ngày 13/12/2020, Hội đồng nhân dân tỉnh ban bành Nghị Quyết
109/NQ-HĐND về thông qua Danh mục dự án án có thu hồi đất để thực hiện trong
năm 2021 trên địa bàn tỉnh trong đó có dự án Khu đô thị Đ Tháng 2.
[4.2.3] Ngày 14/12/2020, UBND tỉnh B có Văn bản số 14032/UBND-VP của
UBND tỉnh về chủ trương thu hồi đất để đầu tư thực hiện dự án Khu đô thị Đ T
thuộc Phường A, Phường A, thành phố V.
[4.2.4] Ngày 31/12/2020, UBND tỉnh bàn hành Quyết định số 4040/QĐ-
UBND về phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2021 của thành phố V trong đó có
dự án Khu đô thị Đ Tháng 2.
[4.2.5] Trong quá trình thực hiện, UBND thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu( U chủ trì) đã mời ông Lê Thế V để thông báo nội dung triển khai dự án Khu
đô thị Đ, trước khi ban hành kế hoạch 1994/KH-UBND ngày 30/3/2021về thu hồi,
điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm cho hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án
Khu đô thị Đ Tháng 2 theo bản án hành chính phúc thẩm số 186/2020/HC-PT ngày
11/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[4.2.6] Tại thời điểm UBND thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành
Quyết định số 11983/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 về việc thu hồi 466,80m
2
đất thì
dự án Khu đô thị Đ có tên Danh mục nhà nước thu hồi đất được Hội đồng nhân dân
tỉnh thông qua tại Nghị Quyết 101/NQ-HĐND ngày 10/12/2021; có tên trong kế
hoạch sử dụng đất năm 2022, được UBND Thành phố V tại Quyết định số
1346/QĐ-UBND ngày 28/4/2022.
Căn cứ điểm d khoản 3 Điều 62; Điều 63; Điều 66, Điều 68; Điều 69 Luật đất
đai năm 2013, việc UBND thành phố V ban hành Thông báo thu hồi đất số
1995/TB-UBND ngày 30/3/2021 và Quyết định thu hồi đất số 11983/QĐ-UBND
ngày 05/10/2022 về việc thu hồi 466,80m
2
đất để thực hiện Dự án Khu đô thị
đường C, Phường A, Phường A, thành phố V đối với ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị
Y để thực hiện dự án Khu đô thị Đ T thuộc Phường A, Phường A, thành phố V là
có căn cứ pháp luật.
[4.2.7] Người khởi kiện cho rằng Thông báo số 1995/TB-UBND ngày
30/3/2021 và Quyết định thu hồi đất số 11983/QĐ-UBND là trái pháp luật vì đây là
Dự án Thương mại nhưng không đấu thầu, không lập bản vẽ dự án, không thỏa
thuận chuyển nhượng đất với gia đình ông. Nhưng quá trình giải quyết vụ án người
khởi kiện không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng minh cho ý kiến trên.
Do đó, Bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu nói trên là đúng. Tại cấp phúc thẩm, ông Lê
Thế V, bà Chu Thị Y cũng không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ nào mới.
Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo trên của người khởi kiện.
20
[5] Về việc người khởi kiện - ông V, bà Y kháng cáo cho rằng đất của ông V,
bà Y thuộc vị trí 1 đường loại 3, Hội đồng xét xử xét thấy: Thửa đất của gia đình
ông V bị thu hồi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trên Sơ đồ vị trí
ngày 19/3/2021 thể hiện không tiếp giáp đường 3 tháng 2. Do đó, không có cơ sở
để xác định thửa đất bị thu hồi nằm ở vị trí 1 của đường loại 3 theo yêu cầu của ông
V, bà Y.
[6] Việc ông V bà Y cho rằng việc thu hồi đất của ông bà nhằm thực hiện dự
án mục đích thương mại nên UBND thành phố V phải thỏa thuận bằng cách nhận
chuyển nhượng đất của ông V, bà Y theo giá thị trường; Hội đồng xét xử xét thấy:
Dự án Khu đô thị Đ T, thành phố V nhằm phục vụ lợi ích công cộng, phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai
năm 2013: “
s
Do đó, yêu cầu trên của ông V, bà
Y là không có cơ sở. Bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu này của người khởi kiện là
đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y cũng không cung
cấp thêm được tài liệu, chứng cứ nào mới. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu
cầu kháng cáo trên của người khởi kiện.
[7] Xét tính hợp pháp của Quyết định số 2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022 của
Chủ tịch UBND thành phố V:
]7.1] Sau khi ban hành Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND ngày
30/3/2021, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh P1 đã gửi thư mời ông V, bà Y nhưng
ông Lê Thế V không nhận thư mời, không tham dự được thể hiện tại Biên bản làm
việc ngày 22/4/2021 và Biên bản làm việc ngày 05/5/2021 triển khai Thông báo thu
hồi đất số 1995/TB-UBND ngày 30/3/2021.
[7.2] Hết thời gian giãn cách xã hội, tính từ ngày 13/10/2021 đến ngày
03/11/2021, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã có 03 thư mời
ông Lê Thế V về thực hiện kiểm đếm thống kê thực địa trên đất theo Thông báo thu
hồi đất số 1995/TB-UBND, tuy nhiên ông V không tham dự thể hiện tại các Biên
bản làm việc ngày 18/10/2021; Biên bản làm việc ngày 25/10/2021; Biên bản làm
việc ngày 01/11/2021; Biên bản làm việc ngày 04/11/2021 kiểm đếm thực địa theo
Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND.
[7.3] Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh có 03 văn bản (Văn bản 668/TTPTQĐ-
PBT ngày 09/11/2021; Văn bản 46/TTPTQĐ-PBT ngày 11/01/2021; Văn bản
79/TTPTQĐ-PBT ngày 10/02/2022) đề nghị U vận động ông Lê Thế V kiểm đếm
thống kê thực địa trên đất theo Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND. Ngày
17/2/2022, U mời ông Lê Thế V phối hợp kiểm đếm thống kê thực địa trên đất theo
Thông báo thu hồi đất số 1995/TB-UBND (thể hiện tại Biên bản làm việc tống đạt
Thư mời 08/GM-UBND), ông V đã không tham dự và U đã có Báo cáo số 390/BC-
UBND ngày 23/3/2022 về vận động ông Lê Thế V phối hợp kiểm đếm thống kê
thực địa trên đất, đề nghị áp dụng biện pháp kiểm đếm bắt buộc và Trung tâm phát
triển quỹ đất tỉnh có Văn bản số 270/TTPTQĐ-PBT ngày 24/3/2023 đề nghị ban
bành Quyết định kiểm đếm bắt buộc.
21
[7.4] Theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 10 Quyết định 34/2015/QĐ-
UBND ngày 25/8/2015 của UBND tỉnh B ban hành quy định trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, quy định về các trường hợp kiểm đếm đặc biệt thì Trung tâm Phát triển quỹ
đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Ủy ban nhân dân Phường A đã thực hiện đầy đủ các
thủ tục theo quy định pháp luật. Tuy nhiên vợ chồng ông V không hợp tác, phối
hợp. Do đó, Chủ tịch UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 2574/QĐ-
UBND ngày 05/4/2022 về kiểm đếm bắt buộc là có căn cứ. Bản án sơ thẩm đã bác
yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y về việc hủy Quyết định số 2574 là đúng pháp
luật.
[8] Xét tính hợp pháp của Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày 06/6/2022 của
Chủ tịch UBND thành phố về cưỡng chế thực hiện kiểm đếm bắt buộc:
[8.1] Sau khi ban hành Quyết định số 2574/QĐ-UBND về kiểm đếm bắt buộc,
U đã thực hiện niêm yết công khai và Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh đã gửi thư
mời ông Lê Thế V để thực hiện thể hiện tại Biên bản làm việc ngày 26/4/2022 về
việc ông V nhận thư mời 25/GM-UBND ngày 25/4/2022.
[8.2] Vào các ngày 29/4/2022 và ngày 13/5/2022, U tổ chức vận động ông V
phối hợp thực hiện Quyết định số 2574/QĐ-UBND.Tuy nhiên ông V không phối
hợp (có tham dự của Ủy ban mặt trận tổ quốc Phường A). Do đó, U đã đề nghị
UBND thành phố V áp dụng thực hiện quyết định cưỡng chế thực hiện kiểm đếm
bắt buộc đối với vợ chồng ông Lê Thế V tại Báo cáo số 711/BC-UBND ngày
23/5/2022 và đề xuất của Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh tại văn bản
363/TTPTQĐ-PBT ngày 20/4/2022.
[8.3] Do đó, Chủ tịch UBND thành phố V đã căn cứ điểm c khoản 4 Điều 10
Quyết định 34/2015/QĐ-UBND ngày 25/8/2015 của UBND tỉnh B về trình tự, thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu, quy định về các trường hợp kiểm đếm đặc biệt và điểm a khoản 1 Điều
70 Luật đất đai 2013, về điều kiện để thực hiện cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc để
ban hành Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày 06/6/2022 là đúng quy định. Bản án
sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y về việc hủy Quyết định số 8551
là đúng pháp luật.
[9] Xét tính hợp pháp của Quyết định 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của
Chủ tịch UBND thành phố về cưỡng chế thu hồi đất:
[9.1] Trung tâm Phát triển quỹ đất Tỉnh đã phối hợp với U niêm yết Quyết
định thu hồi và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ theo quy định.
Đồng thời Trung tâm Phát triển quỹ đất Tỉnh đã gửi các Quyết định thu hồi và
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường đến hộ ông Lê Thế V theo quy định.
Trung tâm Phát triển quỹ đất T4 có 03 lần mời hộ ông Lê Thế V nhận tiền theo thư
mời số 41/TM-TTPTQĐ ngày 20/10/2022; số 42/TM-TTPTQĐ ngày 27/10/2022
và số 43/TM-TTPTQĐ ngày 31/10/2022 nhưng hộ ông Lê Thế V đều vắng mặt.
Trung tâm Phát triển quỹ đất Tỉnh có Thông báo số 05/TB-TTPTQĐ ngày
31/10/2022 và Thông báo số 07/TB-TTPTQĐ ngày 04/11/2022 về việc bàn giao
mặt bằng nhưng hộ ông Lê Thế V đều vắng mặt.
22
[9.2] Ngày 17/11/2022, và ngày 25/11/2022, U phối hợp cùng các đơn vị liên
quan tổ chức vận động hộ ông Lê Thế V bàn giao mặt bằng theo Báo cáo số
1944/BC-UBND ngày 30/11/2022 nhưng hộ ông Lê Thế V vẫn vắng mặt, không lý
do.
[9.3] Như vậy, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định 13772/QĐ-
UBND ngày 14/12/2022 về cưỡng chế thu hồi đất và ngày 03/3/2023, UBND thành
phố V đã thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với ông (bà) Lê Thế V – Chu Thị Yến
theo Thông báo số 207/TB-UBND ngày 17/02/2023 để bàn giao mặt bằng cho
Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là có căn cứ, phù hợp với quy
định tại khoản 1 Điều 71 Luật đất đai 2013; Bản án sơ thẩm đã bác yêu cầu huỷ
Quyết định 13772/QĐ-UBND của người khởi kiện là có căn cứ, đúng qui định của
pháp luật.
[10] Từ những nhận định tại mục [2] đến mục [9.3] nêu trên, có cơ sở xác
định bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm người kháng
cáo không cung cấp, bổ sung được tài liệu, chứng cứ gì mới. Do đó, Hội đồng xét
xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông Lê Thế V và Chu Thị
Y, giữ nguyên quyết định của Bản án án hành chính sơ thẩm.
[11] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến và đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của
ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp
với chứng cứ và nhận định trên của Hội đồng xét xử, được chấp nhận.
[12] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
Hội đồng xét xử không xét.
[13] Về án phí hành chính phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm, qui định tại
Khoản 1 Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Điều 66, 69, 70,
71, Điều 74 Luật đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y.
2. Giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm số 142/2023/HC-ST
ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y:
23
- Hủy quyết định số 11985/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố V về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất cho ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y;
- Buộc UBND thành phố V tiến hành khảo sát lại giá đất để ban hành quyết
định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi diện tích 466,8
m
2
đất, thuộc thửa 11 tờ bản đồ số 79, tọa lạc tại Phường A, thành phố V của ông
V, bà Y theo đúng quy định của pháp luật.
2.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y về việc hủy Thông
báo thu hồi đất số 1995/TB - UBND ngày 30/3/2021 và Quyết định số 11983/QĐ-
UBND ngày 05/10/2022 của UBND thành phố V.
2.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, bà Y về việc hủy Quyết
định số 2574/QĐ-UBND ngày 05/4/2022, Quyết định số 8551/QĐ-UBND ngày
06/06/2022 và Quyết định số 13772/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của Chủ tịch
UBND thành phố V.
2.4. Đình chỉ giải quyết giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê
Thế V, bà Chu Thị Y đối với yêu cầu hủy quyết định số 1431/QĐ-UBND ngày 01-
6-2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
2.5. Về án phí hành chính sơ thẩm:
Ủy ban nhân dân thành phố V phải chịu.
Ông Lê Thế V, bà Chu Thị Y phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng); được
trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án
phí số 0000732 ngày 16/01/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu. Ông V, bà Y đã nộp xong.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Lê Thế V và bà Chu Thị Y mỗi
người phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính phúc thẩm, được
trừ vào số tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm ông Lê Thế V và bà Chu Thị
Y đã nộp theo các biên lai thu tiền số 0006235 ngày 27/9/2023 và 0000179 ngày
29/12/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh;
- Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
- Các đương sự;
- Lưu VP, hồ sơ vụ án, PQH.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Ngọc Hoa