Bản án số 66/2025/HNGĐ-ST ngày 30/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 9 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 66/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 66/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 66/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 66/2025/HNGĐ-ST ngày 30/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 9 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 9 - Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long |
Số hiệu: | 66/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa Huỳnh Thị T và Lê Minh C |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN THẠNH PHÚ
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 66/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 30 – 6 - 2025
V/v tranh chấp “ly hôn, nuôi con”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phan Cẩm Nhung
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Võ Văn Hiện
2. Ông Phạm Văn Vũ
- Thư ký phiên tòa: Ông Trương Nguyễn Nhứt – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú tham gia phiên toà:
Ông Nguyễn Phú Quí - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 480/2024/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng
12 năm 2024 về việc tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 61/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2025 giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn Chị Huỳnh Thị T, sinh năm 1984; ĐKTT: 38/2 ấp T, xã H,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; chỗ ở hiện nay: ấp H, thị trấn T, huyện T, tỉnh B
(có yêu cầu xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Lê Minh C, sinh năm 1983; địa chỉ: 38/2 ấp T, xã H,
huyện thị trấn T, huyện T, tỉnh B, tỉnh Bến Tre (có yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện, văn bản nêu ý kiến và vắng mặt, trong quá trình
tố tụng nguyên đơn chị Huỳnh Thị T trình bày:
Chị và anh Lê Minh C tự nguyện tiến đến hôn nhân, được gia đình tổ chức lễ
cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn ngày 18/02/2019. Thời gian sống chung có 02 con chung Lê Thị Khánh B,
sinh ngày 26/5/2006 và Lê Thị Khánh N, sinh ngày 17/01/2019. Sau khi cưới nhau
2
thì anh chị sống hạnh phúc. Sống chung được 19 năm, khi cưới nhau thì sinh sống
tại nhà của 02 vơ chồng tại xã H, cha mẹ chồng cho ra riêng. Tuy nhiên từ năm
2021 thì phát sinh mâu thuẫn từ việc anh C cho rằng chị lén lút lấy tiền về lo cho
gia đình bên mẹ ruột. Từ đó mâu thuẫn kéo dài, anh C còn thường xuyên đánh đập
chị nên chị phải trở về nhà cha mẹ ruột để sinh sống và ly thân với anh C đã 04
năm qua.
Anh C còn tham gia cờ bạc và 04 năm qua anh C đã có tình cảm với người
phụ nữ khác. Con gái lớn Khánh B đã nhiều lần nhìn thấy. Anh C hiện đã có rước
người phụ nữ khác về chung sống. Chị cũng đã tha thứ nhiều lần tạo điều kiện để
anh C sửa đổi nhưng anh C không thay đổi
Thời gian ly thân 04 năm qua, việc hàn gắn không có kết quả, chị đã không
còn tình cảm với anh C. Anh C ít khi quan tâm đến chị và các con.
Vì vậy nay chị yêu cầu ly hôn với anh C. Chị không yêu cầu anh C cấp dưỡng
cho chị khi ly hôn.
Về con chung: con chung Lê Thị Khánh B, sinh ngày 26/5/2006 đã trưởng
thành chị không yêu cầu giải quyết. Đối với con chung Lê Thị Khánh N, sinh ngày
17/01/2019 hiện đang sống cùng chị, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N
và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung là 700.000 đồng/tháng, cấp dưỡng đến
khi con chung tròn 18 tuổi. Anh C hiện có thu nhập từ nghề mua bán dê, bò và
chăn nuôi nên anh C phải có trách nhiệm đóng góp chi phí nuôi con. Chị chăm lo
cho con đầy đủ, cháu N đang học mầm non hết năm nay là vào lớp 1.
Về tài sản chung, nợ chung: không có, chị không yêu cầu giải quyết.
Theo nội dung bản khai, biên bản hòa giải bị đơn anh Lê Minh C trình bày:
Anh và chị T kết hôn tự nguyện tiến đến hôn nhân, được gia đình tổ chức lễ
cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn ngày 01/7/2005. Thời gian sống chung có 02 con chung Lê Thị Khánh B,
sinh ngày 26/5/2006 và Lê Thị Khánh N, sinh ngày 17/01/2019. Anh và chị T phát
sinh mâu thuẫn 04 năm qua, từ việc mâu thuẫn tiền bạc, trong chuyện làm ăn kinh
tế, bất đồng quan điểm về việc làm ăn. Anh và chị T cũng có cải vã và từ đó 04
năm qua chị T về nhà mẹ ruột ở Thị trấn thị trấn T, huyện T, tỉnh B sống cùng 02
con. Anh đã nhiều lần năn nỉ, nhưng chị T không quay về. Anh đã nhiều lần hàn
gắn đoàn tụ nhưng không đạt kết quả như mong muốn vì mẹ vợ không ủng hộ. Nay
anh không đồng ý ly hôn với chị T.
Nếu Tòa giải quyết theo yêu cầu ly hôn của chị T thì tùy chị T quyết định và
Tòa xem xét. Nếu Tòa giải quyết cho chị T ly hôn thì anh đồng ý giao con chung
Lê Thị Khánh N cho chị T nuôi dưỡng, anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Đối
với con chung Lê Thị Khánh B đã trưởng thành, đang học đại học tại Sài Gòn, anh
3
không yêu cầu giải quyết. Anh là cha không bao giờ bỏ con, luôn quan tâm, yêu
thương con nếu thu nhập có nhiều anh cho nhiều, có ít anh cho ít tùy khả năng kinh
tế. Hiện nay công việc của anh là mua bán bò, dê, chăn nuôi bò, trồng mía, nuôi cá
thu nhập không ổn định.
Về tài sản chung, nợ chung: không có, anh không yêu cầu giải quyết.
Do bận công việc làm ăn nên anh xin vắng mặt trong các lần tòa án mời giải
quyết, hòa giải, xét xử vụ án nêu trên.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về trình tự, thủ tục: Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thực hiện
đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự từ khi thụ lý cho
đến khi đưa vụ án ra xét xử. Do nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt và bị đơn
đã được triệu tập lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do, nên đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt tất cả
những người tham gia tố tụng trong vụ án.
Về nội dung: xét thấy, chị T và anh C tự nguyện sống chung, đăng ký kết hôn
và được UBND xã H, huyện thị trấn T, huyện T, tỉnh B, tỉnh Bến Tre cấp giấy
chứng nhận kết hôn đúng quy định pháp luật. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ
chồng chung sống hạnh phúc, về sau phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn, mục
đích hôn nhân không đạt được, không còn sống chung khoảng 4 năm nay.
Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu ly hôn, Thẩm phán tiến hành
tổ chức hòa giải, công khai chứng cứ. Tại buổi hoà giải, chị Thuỷ giữ nguyên yêu
cầu ly hôn với anh C. Anh C không đồng ý ly hôn nhưng thừa nhận vợ chồng phát
sinh mâu thuẫn đã lâu, vợ chồng nhiều lần đoàn tụ nhưng không có kết quả. Do đó,
xét thấy “mâu thuẫn vợ chồng giữa các đương sự trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” nên yêu cầu ly hôn của chị
T là có căn cứ theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về con chung: Chị Tvà anh C có 02 con chung là Lê Thị Khánh B, sinh
ngày 26/5/2006 và Lê Thị Khánh N, sinh ngày 17/01/2019. Cháu B đã trưởng
thành nên không yêu cầu giải quyết. Chị T yêu cầu trực tiếp nuôi cháu N do cháu
đang sống chung với chị. Anh C cũng đồng ý giao cháu N cho chị T trực tiếp nuôi
dưỡng. Do đó giao cháu N cho chị Thuỷ trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy
định sau khi ly hôn “người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con”. Anh C hiện đang làm nghề chăn nuôi, mua bán cũng có thu nhập. Do đó,
chị Thuỷ yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung 700.000 đồng/tháng, cấp dưỡng
đến khi con chung tròn 18 tuổi là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
4
- Về tài sản chung, nợ chung: chị T và anh C cùng trình bày không có, không
yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.
Từ những phân tích trên, căn cứ vào các Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35,
Điều 39, 227, 228 Bộ Luật tố tụng Dân sự; áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 115
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn:
- Về hôn nhân: chị Huỳnh Thị T được ly hôn với anh Lê Minh C.
- Về con chung: chị Huỳnh Thị T được quyền trực tiếp nuôi con chung Lê
Thị Khánh N, sinh ngày 17/01/2019. Anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung
mỗi tháng 700.000 đồng, cấp dưỡng đến khi con chung tròn 18 tuổi. Sau khi ly hôn
các đương sự có quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định luật hôn nhân
và gia đình.
- Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự cùng trình bày không có, không
yêu cầu yêu cầu giải quyết nên không xem xét;
- Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng: các đương sự không có yêu cầu nên
không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: căn cứ
vào đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Huỳnh Thị T, chị yêu cầu ly hôn với anh Lê
Minh C nên đây là tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28
Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Lê
Minh C cư trú tại xã H, huyện thị trấn T, huyện T, tỉnh B, tỉnh Bến Tre. Do đó căn
cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố
tụng Dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh
Phú.
[2] Về tố tụng: chị T và anh C có yêu cầu xét xử vắng mặt. Vì vậy căn cứ
Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những
người tham gia tố tụng trong vụ án.
[3] Về hôn nhân: Xét về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn thấy rằng chị
T và anh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân
dân xã H, huyện thị trấn T, huyện T, tỉnh B, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn ngày 01/7/2005. Do đó hôn nhân của anh, chị đã tuân thủ đầy đủ các quy
định về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn nên được pháp luật công nhận là hôn
nhân hợp pháp.
Xét lời trình bày của chị T, anh C và Biên bản xác minh về tình trạng hôn
5
nhân thấy rằng hôn nhân của chị T và anh C đã phát sinh mâu thuẫn trong khoảng
thời gian dài, việc hàn gắn không có kết quả, hiện chị T, anh C không còn sống
chung 04 năm qua. Do đó có căn cứ xác định hôn nhân giữa chị T và anh C đã mâu
thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được nên cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly
hôn của chị T là phù hợp.
[4] Về con chung: con chung Lê Thị Khánh B, sinh ngày 26/5/2006 đã
trưởng thành, chị T và anh C không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải
quyết. Đối với con chung Lê Thị Khánh N, sinh ngày 17/01/2019, hiện đang sống
cùng chị T, anh C đồng ý giao cháu N cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy việc
chị T có đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dạy để con chung phát triển tốt về thể chất,
tinh thần. Vì vậy giao cháu N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy
định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
Chị T có yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con là 700.000 đồng/tháng, cấp
dưỡng định kỳ hàng tháng, cấp dưỡng đến khi con tròn 18 tuổi. Anh C không đồng
ý. Theo tại khoản 2, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định sau khi ly hôn
“người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Anh C
hiện đang làm nghề chăn nuôi, mua bán cũng có thu nhập. Do đó, chị Thuỷ yêu
cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung 700.000 đồng/tháng, cấp dưỡng đến khi con
chung tròn 18 tuổi là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: chị T và anh C cùng trình bày không có,
không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí sơ thẩm: chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá
ngạch đối với yêu cầu ly hôn; anh C phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy
định pháp luật.
[7] Quan điểm của Kiểm sát viên là phù hợp với nhận định của Hội đồng
xét xử nên chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; các Điều 39, Điều 147, Điều
228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 115, 116, 117
Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Thị T. Chị Huỳnh
Thị T được ly hôn với anh Lê Minh C.
6
Chị T và anh C không yêu cầu giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng
khi ly hôn nên không xem xét giải quyết.
2. Về con chung: Lê Thị Khánh B, sinh ngày 26/5/2006 đã trưởng thành, chị
T và anh C không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.
Chị Huỳnh Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Thị Khánh N,
sinh ngày 17/01/2019. Anh Lê Minh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Lê
Thị Khánh N là 700.000 đồng/tháng, cấp dưỡng định kỳ hàng tháng, cấp dưỡng
đến khi con chung tròn 18 tuổi.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền,
nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, cha
mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp
nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có căn cứ.
3. Về tài sản chung, nợ chung: chị T, anh C cùng trình bày không có và
không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.
4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Huỳnh Thị T phải chịu
300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai
số 0006083 ngày 11/12/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú
xem như đã nộp xong.
Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Lê Minh C có nghĩa vụ chịu 300.000
đồng.
5. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- UBND xã H;
- VKSND huyện Thạnh Phú;
- Chi cục THADS huyện Thạnh Phú;
- TAND tỉnh Bến Tre;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Phan Cẩm Nhung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm