Bản án số 63/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 của TAND TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 63/2018/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 63/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 của TAND TP. Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Ninh Bình (TAND tỉnh Ninh Bình)
Số hiệu: 63/2018/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/06/2018
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

T ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PH NINH BÌNH
TỈNH NINH BÌNH
___________
Bn án s: 63/2018/HS-ST
Ngày 13/6/2018
CỘNG HOÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
T ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH
- Thành phn Hi đồng xét x sơ thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Phạm Thị Tuyết
Các hội thẩm nhân dân:
Đồng Th Thanh Hương
Bà Nguyễn Th Oanh
- Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Bùi Th Linh Chi Thư ký Toà
án nhân dân thành phố Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình tham gia phiên
toà: Bà Vũ Th Minh Nguyệt - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 6 năm 2018, ti trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình,
tỉnh Ninh Bình xét x sơ thm v án hình s th s: 55/2018/HS-ST, ngày
13/4/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s 59/2018/QĐXXST-HS ngày
30/5/2018 đối với các bị cáo:
1. H n: Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1969 tại thành phố NB, tỉnh Ninh
Bình; Nơi ĐKHKTT: Số nhà xx, đường x, phố BT, phường TT, thành ph NB, tỉnh
Ninh Bình; Chỗ hiện nay: phố Hp, phường NK, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính:
Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc B (Đã chết)
con : Trịnh Thị N (Đã chết); Vợ: Trịnh Thị H, con: 02 con, con lớn sinh
năm 1992, con nhỏ sinh năm 2000; Tiền án; Tiền sự: Chưa ; Nhân thân: ngày
20/8/2004 Tòa án nhân n thị Phủ xử phạt 36 tháng giam v tội vận
chuyển trái phép chất ma túy, b cáo chấp hành xong hình phạt tù t ngày
7/10/2006.
2
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/12/2017, hiện đang bị tạm giam tại trại
tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay, có mt.
2. Họ n: Tạ Thị N, sinh năm 1979 tại huyện YK, tỉnh Ninh Bình; Nơi
ĐKHKTT ch hiện nay: S nhà xx, ngõ xx, đường HD, ph y S 2, phường
TB, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn
hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: T Văn Đ (Đã chết) con bà: Đinh Th T; Chồng: Quách Văn S (Đã
chết); con: có 01 con sinh năm 2004; Tiền án; Tiền sự: Chưa có.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày tngày 28/11/2017 đến ngày 04/12/2017 chuyển
tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay, có mặt.
Người quyền lợi và nghĩa v liên quan: Anh Thái S, sinh năm 19..
Trú tại: s nhà xx/xx, đưng THS, ph BT, phường N T, thành ph Ninh Bình,
tỉnh Ninh Bình.
Người làm chng: - Anh Vũ Toàn T, sinh năm 19xx
Trú tại: số nhà xx, đường x, phố x, phường ĐT, thành phố NB, tỉnh Ninh
Bình.
- Anh Trương Quảng N, sinh năm 19xx
Trú ti: s nhà xx, ngõ xx, đưng PHT, phưng VG, thành ph NB, tỉnh Ninh
Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Ngọc D là người nghiện ma y, có quan hệ tình cảm và chung sống
như vợ chồng với Tạ Thị N. Để có tiền chi tiêu cá nhân và sử dụng ma túy, D nhiều
lần đi mua ma y khu vực cầu Non Nước thuộc thôn Dinh Tần, n Bằng,
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định rồi về chia thành nhiều gói nhỏ với mục đích vừa đ
sử dụng cho bản thân vừa cùng với N bán cho những người nghiện khác kiếm lời.
Khoảng ngày 20/11/2017, D mua của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ ở
khu vực thôn Dinh Tần, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định 400.000 đồng
được 04 gói heroine rồi mang về nhà sử dụng hết 02 gói, còn 02 gói cất ở túi áo rét
trong phòng ngủ. Ngày 26/11/2017, D ng mua của một người đàn ông không
tên tuổi địa chỉ khu vực thôn Dinh Tần, Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định 700.000 đồng được một gói heroine mang về nhà phân chia thành 07 gói nhỏ
rồi cất dấu để bán cho những người nghiện khác kiếm lời. Trong các ngày từ
3
26/11/2017 đến 28/11/2017 b cáo D b cáo N đã 04 lần bán trái phép chất ma
túy cho Thái Bá S và Vũ Toàn T, cụ thể:
Lần thứ nhất: Do quen biết với D biết D ma túy bán nên khoảng 20
giờ 30 phút ngày 26/11/2017, S rủ T đến nhà D mua heroine về sử dụng. T đồng ý
rồi mượn xe của Lợi (không địa chỉ đâu) chở S đến nhà D phố HP,
phường NK, thành phố NB. Đến nơi, S gọi D ra hỏi mua 200.000 đồng heroine. Do
thấy người lạ đi cùng S nên D nói “Hết rồi, đưa tiền đây anh đi mua hộ cho”. S
đưa cho D 200.000 đồng và đứng chờ ở cổng, D cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô đi
ra ngoài đầu ngõ, sau đó lấy 01 gói heroine để ở túi quần đang mặc ra cầm ở tay rồi
quay lại đưa gói heroine cho S. Mua được ma túy S và T sử dụng hết.
Lần thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 27/11/2017, D N đang tưới cây sân
nhà D thì Thái S đến hỏi mua heroine đưa cho D 200.000 đồng, D cầm tiền
rồi bảo N lấy cho S 01 gói heroine. N đi vào hiên nhà lấy một gói heroine mà D đã
để ở trên mặt bàn uống nước từ trước ra đưa cho S. Tại đây D nói với S lần sau đến
mua ma túy thì gọi vào số điện thoại của N bảo S đọc số để N nháy máy sang
nhưng lúc này điện thoại của N hết tiền nên N nói với S cứ về đi rồi N sẽ nháy máy
sang sau. S cầm gói heroine mua được mang về nhà sử dụng hết.
Lần thứ ba: Khoảng 08 giờ ngày 28/11/2017, D đi uống Methadone trung
tâm phòng chống HIV/AIDS Ninh Bình, trên đường về nhà thì gặp N, D đưa cho N
01 gói heroine nói ai hỏi mua thì bán. Đến khoảng 12 giờ10 phút cùng ngày,
D đang nhà thì Thái S Toàn T đến. S gọi D ra hỏi mua 200.000 đồng
heroine, do không nhớ nhà vẫn còn heroine nên D nói Anh hết hàng rồi” bảo
S đưa điện thoại cho D. D cầm điện thoại của S gọi cho N nói “Tý nữa bán cho S
hai trăm heroine” rồi bảo S đến khu vực cổng nhà máy điện Ninh Bình gặp N để
mua heroine. T liền chở S đến cổng nhà máy điện Ninh Bình thuộc phố Tây Sơn 2,
phường Thanh Bình, thành phố Ninh Bình. Trên đường đi N gọi điện cho S hỏi “Đi
đến đâu rồi”, S nói “Sắp đến nơi rồi”, N nói tiếp “Đến cổng nhà máy điện Ninh
Bình thì gọi điện cho chị”. Đến nơi, S điện thoại cho N, khoảng 02 phút sau N điều
khiển xe nhãn hiệu Luvias biển kiểm soát 35B - 410.14 đến gặp S T. S
đưa cho N 200.000 đồng, N cầm tiền rồi đưa cho S 01 phong dán kín bên trong
có 01 gói heroine. S cầm lấy rồi cùng T đi ra bãi đất trống ở gần đó sử dụng hết.
Lần thứ tư: Khoảng 16 giờ 30 ngày 28/11/2017, N đến nhà D, D đưa cho N
06 gói heroine để ai hỏi mua thì bán. N cầm lấy bỏ vào túi áo khoác đang mặc
rồi điều khiển xe nhãn hiệu Luvias biển kiểm soát 35B - 410.14 đi về nhà.
Trên đường về, Thái S gọi điện thoại cho N hỏi mua 200.000 đồng heroine, N
4
đồng ý hẹn S đến khu vực tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế, phường Ninh Khánh,
thành phố Ninh Bình. Sau khi gọi điện thoại, S thuê xe ôm từ nhà đi đến địa điểm
hẹn. Trên đường đi N gọi điện cho S nói đến khu vực ntư Hoa Đô, đường Trần
Hưng Đạo, phố Khánh Thành, phường Tân Thành rồi sau đó N lại gọi điện lại bảo
S đến khu vực khách sạn Vissai, thuộc phố Phúc Tân, phường Tân Thành, thành
phố Ninh Bình. Khoảng 17 giờ cùng ngày, S đến gần khách sạn Vissai thấy N đang
ngồi trên xe mô đỗ ven đường, S nói người lái xe ôm dừng lại cách chỗ N
khoảng 30 mét rồi xuống đi bộ đến gặp N. Do đã trao đổi việc mua bán ma túy với
N từ trước nên S lấy 200.000 đồng đưa cho N, N cầm tiền rồi lấy trong túi áo khoác
đang mặc ra 01 gói heroine đưa cho S. Cùng lúc đó Công an tỉnh Ninh Bình làm
nhiệm vụ tại khu vực phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên tay trái của N số tiền
200.000 đồng tiền vừa bán ma túy cho S. Thu giữ trên tay phải của S 01 gói
heroine vừa mua của N. Do sợ hãi N móc trong túi áo rét bên phải đang mặc ra 04
gói heroine thả xuống đường ngay dưới chân thì bị tổ Công tác phát hiện thu giữ,
sau đó N tự giác lấy 01 gói heroine còn lại trong túi áo ra giao nộp cho tổ công tác.
Ngoài ra còn thu giữ của N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di
động Iphone, 01 xe mô nhãn hiệu Luvias biển kiểm soát 35B1 - 410.14. Thu giữ
của S 01 điện thoại di động Oppo. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ niêm phong
các vật chứng vào phong thư theo quy định rồi đưa N, S cùng tang vật về trụ sở
Công an phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội
quả tang.
Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Tạ Thị N và nhà ở của Nguyễn Ngọc
D kết quả không thu giđồ vật, tài liệu gì. Ngoài ra, quan điều tra thu giữ của
Nguyễn Ngọc D 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung.
Tiến hành cân xác định trọng lượng chất bột dạng cục mầu trắng thu giữ của
Thái Bá S Tạ Thị N, kết quả: Gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng thu giữ
của Thái S trọng lượng 0,05 gam, kí hiệu M1; 05 gói nhỏ gói ngoài bằng
giấy bạc mầu vàng thu giữ của Tạ Thị N trọng lượng 0,42 gam, hiệu M2.
Gửi các mẫu M1, M2 để giám định xác định loại ma túy và khối lượng chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 238/KLGĐ - GĐMT- PC54 - MT ngày
30/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, kết luận: Mẫu chất
bột dạng cục màu trắng gửi giám định hiệu M1 khối lượng 0,0500 gam; M2
khối lượng 0,4200 gam đều ma túy, loại Heroine; Heroine chất ma tuý
thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 20; Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày
19/7/2013 của Chính phủ. Như vậy trọng lượng heroine thu giữ của Thái S
5
0,0500 gam, trọng lượng heroine thu giữ của Tạ Thị N 0,4200 gam. quan
giám định hoàn lại đối tượng giám định 0,3433 gam chất bột mầu trắng trong
mẫu gửi giám định hiệu M2 ma túy, loại heroine và toàn bộ vỏ bao gói trong
gói niêm phong ban đầu được niêm phong trong phong theo quy định của pháp
luật.
Quá trình điều tra, Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N đã thành khẩn khai báo.
Tại bản Cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 16/4/2018 Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Ninh Bình đã truy t các b cáo Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N về tội Mua
bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự
năm 1999.
Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, không thay
đổi, b sung đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: các b cáo Nguyễn Ngọc D, Tạ
Thị N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, khoản 2, Khoản
5 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Xphạt bị cáo
Nguyễn Ngọc D từ 8 (Tám) năm đến 8(Tám) năm 6 (Sáu) tháng tù. Thời hạn
tính t ngày 04/12/2017. Phạt tiền b cáo D t 5 triệu đến 7 triệu đồng; Áp dụng
điểm b, khoản 2, Khoản 5 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình
sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Tạ Thị N 7 (bảy) năm 6 (Sáu) tháng đến từ 8
(Tám) năm . Thời hạn tính t ngày 28/11/2017. Phạt tiền b cáo N t 5 triệu
đến 7 triu đồng.
Áp dụng điều 41 BLHS năm 1999, Điều 106 BLTTHS năm 2015: - Tịch thu
tiêu hủy s ma túy còn lại thu gi của các b cáo.
- Tịch thu sung qu Nhà nước 01 điện thoại Nokia
- Tịch thu sung qu Nhà nước 200.000 đồng thu gi của b cáo N
- Truy thu sung qu nhà nước s tiền 600.000 đồng b cáo D đã bán ma túy
trong các ngày 26/11/2017, 27/11/2017, 28/11/2017.
- Tr lại cho b cáo D 01 điện thoại Samsung 01; tr lại cho b cáo N 01 điện
thoại Iphone.
- Các b cáo phải nộp án phí hình s sơ thẩm quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
6
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các b cáo Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N
không ý kiến với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Ninh Bình; đề nghị hội đồng xét xử xemt, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên snội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ ván đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà hôm nay các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N đã khai nhận
toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Xét thấy
lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại
quan điều tra; phợp với các tài liệu trong hồ vụ án; vật chứng đã thu
giữ; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy đã
đủ sở kết luận: trong các ngày từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 11 năm 2017
các b cáo Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N đã nhiều lần bán trái phép chất ma túy cho
Thái S và Vũ Toàn T nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi đó của các b cáo đã đủ
yếu t cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm hình phạt được
quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 B luật hình s năm 1999. Cáo trạng của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo với tội danh và khung
hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo rất nghiêm trọng, ảnh hưởng đến trật
t tr an, ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân, xâm hi đến chính sách độc quyền
quản chất ma túy của Nhà ớc, một trong những nguyên nhân làm phát sinh
tội phạm, tệ nạn xã hội khác.
Các bcáo công dân đã trưởng thành, nhận thức tác hại của ma túy.
Song các bị cáo không tu dưỡng rèn luyện bản thân, không chịu khó lao động chân
chính, mà do lười lao động, muốntiền để thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên đã
phạm tội. Do đó, hội đồng xét xử thấy, cần buộc các bị cáo phải chịu mức hình phạt
cách ly hội một thời gian tương xứng với hành vi các bị cáo đã thực hiện
mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo các b cáo tr thành người lương thiện.
Trong v án nàyhai b cáo cùng thực hiện một tội phạm đềuthực hành nên
đồng phạm giản đơn. Đ quyết định hình phạt tương xứng với vai trò cu các b cáo
thì thấy rằng: B cáo D người khởi xướng việc mua bán ma túy để kiếm lời, b
cáo lại trực tiếp mua ma túy trực tiếp cùng b cáo N bán ma túy cho các đối
tượng nghiện khác, n b cáo vai trò đứng đầu, vậy b cáo phải chịu hình
phạt cao hơn b cáo N; Đối với b cáo N vừa người giúp sức vừa người thực
7
hiện tích cực hành vi bán ma túy cùng b cáo D, b cáo phải chịu hình phạt thấp hơn
b cáo D.
V tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình s: Các b cáo không có tình tiết tăng
nặng.
V tình tiết giảm nh trách nhiệm hình s: tại phiên tòa hôm nay cũng như
tại cơ quan điều tra các b cáo đềuthái độ khai báo thành khẩnn được áp dụng
tình tiết giảm nh quy định tại điểm p, khoản 1 Điều 46 B luật hình s. Riêng b
cáo N b đẻ người công với cách mạng, được tặng thưởng Huân chương
chiến s giải phóng Huy chương kháng chiến n được áp dụng thêm tình tiết
giảm nh quy định tại khoản 2 Điều 46 B luật hình s.
[3] Về nh phạt bổ sung: Các bcáo mua bán trái phép chất ma tuý nhằm
thu lời bất chính, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để
sung quỹ Nhà nước.
[4] Về nguồn gốc số ma y: b cáo Nguyễn Ngọc D khai nhận mua của
người không tên tuổi địa chỉ khu vực thôn Dinh Tần, Yên Bằng, huyện Ý
Yên, tỉnh Nam Định, không đủ sở xác minh làm rõ. Nên Hội đồng xét xử không
xem xét.
[5] Quá trình điều tra, Thái S còn khai nhận vào khoảng 17 giờ trước
ngày bị bắt 01 tuần (tức ngày 21/11/2017), S rủ bạn là Ngô Ngọc T sinh năm 1980,
trú tại số nhà xxx, đường THĐ, phKT, phường TT, thành phố Ninh Bình đi mua
heroine sử dụng, T đồng ý. Do không biết chỗ bán heroine nên S đưa cho T
200.000 đồng để T mua. Tuân đã chở S đến nhà Nguyễn Ngọc D ở phố Hưng Phúc,
phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình để mua ma túy. Đến nơi, S đứng ở cổng
còn T vào trong nhà D. Khoảng 2-3 phút sau T đi ra, lấy 01 gói heroine chia cho S
một nửa, S mang đi sử dụng hết còn T mang đi đâu S không biết. Nhưng Nguyễn
Ngọc D không thừa nhận việc bán ma túy cho S T vào ngày 21/11/2017.
quan điều tra đã nhiều lần triệu tập Ngô Ngọc T đến làm việc nhưng T hiện không
mặt tại địa phương nên chưa đủ căn cứ để xác định D bán ma túy cho S T
vào ngày 21/11/2017. Nên Hội đồng xét xử kng xemt.
Đối với Thái S người đã mua 0,0500 gam Heroine của Tạ Thị N để sử
dụng, nhưng lượng ma túy ít, chưa đủ điều kiện để xử hình sự. Công an thành
phố Ninh Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 500.000 đồng về hành
vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý”phù hợp.
8
Đối với Toàn T người đi cùng Thái S mua ma túy của Nguyễn
Ngọc DTạ Thị N để sử dụng. Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, phạt cảnh cáo với Vũ Toàn T là phù hợp.
Đối với anh Nguyễn Ngọc T người đem xe mô tô đến nhà D, sau đó D đưa
cho N làm phương tiện đi bán ma túy nhưng anh T không biết việc D, N sử dụng
chiếc xe này làm phương tiện đi bán ma túy nên không đồng phạm.
[5] V xử lý vật chứng: Đối với số ma tuý quan giám định hoàn lại là
vật Nhà nưc cm lưu hành vỏ phong niêm phong không giá tr s dụng,
cn tch thu, tiêu hu.
- Buộc b cáo Nguyễn Ngọc D phải nộp lại s tiền 600.000 đồng b cáo
đã bán ma túy cho Thái Bá S trong các ngày 26/11/2017, 27/11/2017, 28/11/2017
đ sung qu Nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung thu gi của b cáo
Nguyễn Ngọc D; 01 điện thoại Iphone thu gi của b cáo T Th N không liên
quan đến v án nên tr lại cho các b cáo.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia b cáo N dùng vào việc
phạm tội nên tch thu sung qu Nhà nước.
- Đối với s tiền 200.000 đồng thu gi của b cáo N do b cáo N bán ma túy
cho Thái Bá S ngày 28/11/2017 nên Tịch thu sung qu Nhà nước.
Đối với xe mô hiệu Luvias biển kiểm soát 35B - 410.14 thu giữ của Tạ
Thị N. Quá trình điều tra xác định chiếc xe này của anh Nguyễn Ngọc T sinh
năm xxxx trú tại phố BT, phường TT, thành phố NB, khoảng đầu năm 2014 T được
một người bạn tên là C (không rõ lai lịch, địa chỉ) nhờ T giữ hộ. Do C chưa đến lấy
xe nên T mang xe này để n bố đẻ Nguyễn Ngọc D. Đến khoảng tháng
9/2017 D đưa chiếc xe này cho N mượn để làm phương tiện đi lại. Tra cứu thông
tin đến nay chưa xác định được chủ sở hữu. quan điều tra Công an thành phố
Ninh Bình đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe để tiếp tục điều tra xác
minh làm rõ và xử lý sau.
Đối với 01 điện thoại di động Oppo thu giữ của Thái S dùng đliên lạc
trao đổi mua bán ma túy với Tạ Thị N. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại
này là của anh Lã Văn H sinh năm 19xx trú tại thôn VT, xã NP, thành phố NB cho
S mượn nhưng không biết S sử dụng để liên lạc mua ma túy. Cơ quan cảnh sát điều
tra Công an tỉnh Ninh Bình đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh H là có căn c.
9
[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp lut.
[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định
tố tụng của quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên, Viện
Kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy
tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục được quy định tại Bộ luật
tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố các bcáo Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N phạm tội "Mua bán trái
phép chất ma túy”.
1.1. Căn cứ điểm b, khoản 2, khoản 5, Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bcáo Nguyễn Ngọc D 8(Tám) năm . Thời hạn tính từ ngày
04/12/2017.
Phạt b cáo Nguyễn Ngọc D 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
1.2. Căn cứ điểm b, khoản 2, khoản 5, Điều 194; điểm p, khoản 1, khoản 2
Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bcáo Tạ Thị N 7(bảy) năm 6 (Sáu) tháng . Thời hạn tính từ
ngày 28/11/2017.
Phạt b cáo Tạ Thị N 5.000.000đ (Năm triệu đồng).
K t ngày Bản án hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành song s tiền
phạt nêu trên (Tr án phí) thì hàng tháng b cáo D b cáo N còn phải chịu khoản
tiền lãi cảu s tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại Điều 357 B
luật Dân s.
2. Về xử vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, Điều 106
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu tiêu hủy sma túy còn lại ng v phong bì thư thu gi của b
cáo T Th N và Thái Bá S.
- Tịch thu sung qu Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia thu
gi của b cáo N.
- Buộc b cáo Nguyễn Ngc D phải nộp lại s tiền 600.000 đồng đ sung
qu Nhà nước.
10
- Tr lại cho b cáo Nguyn Ngọc D 01 điện thoại di đng nhãn hiệu
Samsung; Tr lại T Th N 01 điện thoại Iphone.
(Các vật chứng đặc điểm theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 18
tháng 4 năm 2018 giữa Công an Thành phố Ninh Bình Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Ninh Bình).
- Tịch thu sung qu Nhà nước 200.000 đồng thu gi của b cáo Tạ Thị N.
Số tiền 200.000đ thu gi của b cáo N hiện đang quản tại tài khoản số
3949 của Chi cục thi hành án Dân sthành phố Ninh Bình tại Kho bạc Nhà nước
tỉnh Ninh Bình theo Uỷ nhiệm chi lập ngày 17/4/2018.
3. Ván phí nh sthẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng
hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lphí Tòa án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Tạ Thị N mỗi b cáo phải nộp 200.000
đ
(Hai trăm
nghìn đồng).
Án xử công khai thẩm, bị cáo mặt được quyền kháng o bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa v liên quan được
kháng cáo trong hạn 15 ngày k t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi nh án dân sự quyền
thothuận thi hành án, quyền yêu cầu thi nh án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Nơi nhận :
- TANDTỉnh Ninh Bình;
- VKSNDTP Ninh Bình;
- Chi Cục THADS thành phố Ninh Bình;
- Công an thành phố Ninh Bình;
- Sở tư pháp tỉnh Ninh Bình;
- THA hình sự
- Bị cáo; Người b hại; người liên quan;
- Lưu HS v án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(Đã ký, đóng dấu)
Phạm Thị Tuyết
Tải về
Bản án số 63/2018/HS-ST Bản án số 63/2018/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất